Cẩm nang ngữ văn 9 – Toàn bộ về “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ

BÀI 16: CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH (Trích Vũ Trung Tuỳ Bút) của Phạm Đình Hổ

Bài viết giúp các em lớp 9 nắm chắc toàn bộ về Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ và luyện tập các câu hỏi Đọc – Hiểu. Đây cũng là tài liệu hữu ích để các em học sinh lớp 9 ôn thi vào 10. Ngoài ra bài viết cũng được soạn thảo với mục đích giúp các thầy cô giáo có thêm tài liệu tham khảo để soạn bài Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ.

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

Giới thiệu tác giả Phạm Đình Hổ – Tác giả Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).

– Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người có chí hướng: “ Làm người con trai phải lập than hành đạo… lấy văn thơ nổi tiếng ở đời”

– Là người có nhân cách cao thương, sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, vua vời ông ra làm quan, ông đã mấy lần từ chức, rồi lại bị triệu ra.

– Phạm Đình Hổ để lại nhiều công trình biên soạn khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lý… tất cả đều bằng chữ Hán.

Ý nghĩa nhan đề Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh Vũ trung tuỳ bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa)

 

Xuất xứ Đoạn trích nằm trong tác phẩm “ Vũ Trung tùy bút ( tùy bút viết trong những ngày mưa) được viết khoảng đầu đời Nguyễn ( thế kỉ XĨ).
Thể loại Viết theo thể tuỳ bút, hiểu theo nghĩa là ghi chép tuỳ hứng, tản mạn, không cần hệ thống, kết cấu gì.
Bố cục

2 phần

 

– Phần một: Từ dầu đến “ biết đó là triệu bất tường”: Những thú ăn chơi của chúa Trịnh.

– Phần hai: Còn lại: Sự tham lam, nhũng nhiễu của quan lại trong phủ Chúa.

Tóm tắt Khoảng năm Giáp Ngọ, trong nước có chúa Trịnh Sâm thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các ly cung. Xây dựng đình đài liên miên. Nhân việc đó, nội quan đều mặc quần áo đàn bà, cải trang để bán một số đồ vật kiếm tiền. Có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc và chơi vài bài.

Mỗi khi tìm thấy những loài trân cầm dị thú, Chúa đều thu hết. Bọn quan lại thấy thế bèn mượn gió bẻ măng, hù doạ nhân dân. Hễ thấy nhà giàu nào có cây cảnh hay đồ vật đẹp nào đều quy cho vào tội phụng thủ, người ta phải van xin chí chết mới được tha. Nhà tác giả cũng có trồng một cây lê và hai cây lựu nở hoa rất đẹp nhưng cũng phải chặt đi cũng vì cớ ấy.

Giá trị nội dung Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh  Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” phản ánh đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh.
Giá trị nghệ thuật Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh  Phạm Đình Hổ thành công ở thể loại tuỳ bút, sự ghi chép chân thực, sinh động, giàu chất trữ tình. Các chi tiết miêu tả chọn lọc, đắt giá, giàu sức thuyết phục, tả cảnh đẹp tỉ mỉ nhưng lại nhuốm màu sắc u ám, mang tính dự báo. Giọng điệu tác giả gần như khách quan nhưng cũng đã khéo léo thể hiện thái độ lên án bọn vua quan qua thủ pháp liệt kê.

B. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Phân tích “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ

1. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại cận thần trong phủ Chúa:

a) Thói ăn chơi xa xỉ, xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh được Phạm Đình Hổ miêu tả rất cụ thể, sinh động. Cuộc sống của chúa là cuộc sống giàu sang đến tột đỉnh.

– Chúa cho xây nhiều cung điện, đền đài ở khắp mọi nơi, để thoả ý thích chơi đèn đuốc “ngắm cảnh đẹp”, ý thích đó biết bao nhiêu cho vừa, vì vậy “việc xây dựng đình đài cứ liên miên”, hao tiền, tốn của.

– Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung (cung điện lâu đài xa kinh thành). Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây hồ được miêu tả tỉ mỉ: Diễn ra thường xuyên “tháng ba bốn lần”, huy động rất nhiều người hầu hạ “binh lính dàn hầu bốn mặt hồ” – mà Hồ Tây thì rất rộng. Không chỉ là dạo chơi đơn thuần, mà còn là nghi lễ tiếp đón tưng bừng, độc đáo, những trò chơi lố lăng (tổ chức hội chợ, cho quan nội thần cải trang thành đàn bà bày bán hàng), chùa Trấn Quốc, nơi linh thiêng của phật giáo cũng trở thành nơi hoà nhạc của bọn nhạc công cung đình.

– Dùng quyền lực để tìm và cướp lấy các của quý trong thiên hạ như trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch… (chim quý, thú lạ, cây cổ thụ, những hòn đá có hình dáng kỳ lạ, chậu hoa, cây cảnh) về tô điểm cho nơi ở của chúa.

– Tác giả chọn một cảnh điển hình của cuộc cướp đoạt ấy là cảnh lính tráng trở một cây đa cổ thụ về phủ chúa (đây là một chi tiết tiêu biểu làm rõ chủ đề). Tác giả miêu tả kỹ lưỡng, công phu bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng nề: “Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông”… như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại có bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Người viết tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể, chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết hiện lên đầy ấn tượng.

* Nhận xét: Những chi tiết kể, tả chân thực cho thấy phủ chúa là nơi bày ra những trò chơi tốn kém và hết sức lố bịch. Để phục vụ cho sự ăn chơi ấy thì tiền của, công sức, mồ hôi nước mắt và thậm chí cả mạng sống của nhân dân phải hao tốn biết bao nhiêu mà kể.

b) Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa qua đoạn vănMỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”.

– Cảnh được miêu tả là cảnh thực nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì tan tác, đau thương như không phải trước cảnh đẹp yên tĩnh, phồn thực. “triệu bất tường” tức là điềm gở, điềm chẳng lành.

– Hình ảnh ẩn dụ tả cảnh bất thường của đêm thanh cảnh vắng như báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết chăm lo đến chuyện ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Cảm xúc chủ quan của tác giả đến đây mới được bộ lộ.

2. Sự tham lam nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa.

– Tác giả đã vạch trần thủ đoạn “mượn gió bẻ măng” của bọn hoạn quan, cung giám : Lợi dụng uy quyền của các chúa để vơ vét của cải trong thiên hạ : vừa ăn cướp, vừa la làng.

– Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa rất được sủng ái, bởi chúng có thể giúp chúa đắc lực trong việc bày các trò ăn chơi, hưởng lạc. Do thế, chúng cũng ỷ thế nhà chúa mà hoành hành, tác oai, tác quái trong nhân dân.

– Để phục vụ cho sự hưởng lạc ấy, chúa cũng như các quan đã trở thành những kẻ cướp ngày. Chúng ra sức hoành hành trấn lột khắp nơi trong thành tìm đồ vật, cây cối đẹp, con thú cướp về trang trí cho phủ chúa lộng lẫy xa hoa : “bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy”  “trong phủ, tuỳ chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ, trông như bến bể đầu non” Chúa có những vật quý ấy thì bao người dân bị ăn cướp trắng trơn. Bọn quan lại thường “mượn gió bẻ măng, ngoài dò dẫm“, dò xem nhà nào có vật quý thì biên vào hai chữ  “phụng thủ”, đem cho người đến lấy phăng đi. Rồi vừa ăn cướp vừa la làng, chúng còn dọa giấu vật của phụng để dọa lấy tiền của dân. Người dân vừa bị cướp vật quý vừa bị đòi tiền, có khi lại còn phải tự tay phá huỷ những thứ mình đã chăm sóc, nuôi trồng để tránh khỏi tai vạ. Còn bọn hoạn quan đối với chúa thì được thưởng, được khen, được thăng quan tiến chức, bổng lộc ních đầy túi, một công mà lợi cả đôi đường.

– Đoạn văn cuối là chi tiết kể rất thật về gia đình của chính tác giả: bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý, rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai vạ. Đây không chỉ là điều tác giả mắt thấy tai nghe mà còn là điều ông đã trải qua, nên rất có sức thuyết phục. Cảm xúc của tác giả (thái độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm một cách kín đáo qua đó.

C. LUYỆN ĐỀ:

ĐỀ ĐỌC- HIỂU CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ – SỐ 1:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

“ Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vượng (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đền đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hồ vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt kín khăn, mặc áo như đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”.

Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản nào? Tác giả?

Câu 2: Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt nào?

Câu 3: Nội dung của đoạn trích trên là gì?

Hướng dẫn trả lời:

Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản “ Chuyện cũ trong phủ chúa Trinh”- Phạm Đình hổ

Câu 2: Phương thức biểu đạt chính: tự sự.

Câu 3:

Nội dung: Thói ăn chơi xa đọa của vua chúa và nhũng nhiễu của bọn vua chúa, quan lại thời Trịnh được Phạm Đình Hổ miêu tả rất cụ thể, sinh động.

+ Chúa cho xây dựng đền đài, cung điện ở khắp nơi liên miên, thỏa ý thích chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp.

+ Chúa bày ra các cuộc dạo chơi tốn kém ở li cung: tháng ba lần, huy động binh lính dàn hầu bốn mặt hồ.

+ Nơi linh thiêng của phật giáo cũng trở thành nơi hòa nhạc của bọn vũ công.

ĐỀ ĐỌC- HIỂU CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ – SỐ 2:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

“ Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài ra đến vài trượng, phải một cơ binh khiêng mới nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”.

Câu 1: Trong đoạn trích trên câu nào sử dụng biện pháp liệt kê, nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.

Câu 2: Hình ảnh chúa trong đoạn trích trên được thể hiện như thế nào?

Câu 3: Nhận xét thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.

Câu4: Nhận xét cách ghi chép của tác giả.

Câu 5: Ấn tượng về cảnh đêm nơi vườn chúa được miêu tả thế nào?

Hướng dẫn trả lời:

Câu 1: Câu văn sử dụng biện pháp liệt kê: “Buổi ấy, biết bao nhiêu những loại trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.

Các từ ngữ liệt kê: trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh.

– Nhấn mạnh những thứ quý hiếm trong dân gian đều bị chúa ra sức vơ vét, chiếm làm của riêng. Chúa Trịnh là kẻ tham lam, tàn ác.

Câu 2: Hình ảnh chúa Trịnh trước ngòi bút miêu tả của tác giả Phạm Đình Hổ.

– Dùng quyền lực để cướp bóc những thứ của quý trong thiên hạ về tô điểm cho phủ chúa.

– Cảnh điển hình của cuộc cướp đoạt: bọn lính tráng khiêng một cây đa cổ thụ về phủ chúa.

– Tác giả miêu tả kĩ lưỡng, công phu, bằng ngôn từ chân thật, sống động.

Câu 3: Tác giả thể hiện thái độ căm ghét, phẫn nộ trước hành động tham lam của bọn quan lại, đặc biệt là hành động cướp bóc thức quý hiếm trong dân gian của chúa.

– Tác giả đau xót trước hiện trạng đất nước ngày càng suy yếu, còn vua chúa sa đọa, quan lại thì nhũng nhiễu, vơ vét đầy túi.

Câu 4: Cách ghi chép của tác giả trong đoạn trích: ngòi bút chân thực, việc ghi chép cụ thể, sinh động.

Câu 5: Cảnh tượng vườn đêm của chú được miêu tả bằng một câu liệt kê dài: “ Mỗi khi cảnh đêm thanh vắng… là triệu bất thường.”

– Cảnh được miêu tả là cảnh thực, gợi lại cảm giác ghê rợn trước cái tan tác, đau thương chứ không phải cảnh yên bình.

– “Triệu bất thường”, hình ảnh ẩn dụ cảnh bất thường của đêm thanh vắng như báo trước sự suy vong tất yếu của triều đại chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ.

ĐỀ ĐỌC- HIỂU CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ – SỐ 3:

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậy trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân binh lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá hủy tường nhà để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.

Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng chủ yếu phương thức biểu đạt nào?

Câu 2: Bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng nhưng thủ đoạn nào?

Câu 3: Hình ảnh người dân trong đoạn trích như thế nào?

Câu 4: Qua đoạn trích em cảm nhận về tình trạng nước ta thời vua Lê – Trịnh thế nào?

Hướng dẫn trả lời:

Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng phương thức tự sự là chủ yếu.

Câu 2: Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại ở phủ chúa.

– Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại lớn nhỏ trong phủ đều được sủng ái, chúng là tay chân đắc lực bày ra các trò ăn chơi, hưởng lạc cho chúa.

– Chúng ỷ thế vào chúa để ra ngoài ăn chơi, hưởng lạc, sách nhiễu dân chúng: “bọn hoạn quan cung giám thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”.

– Bọn quan lại ra sức cướp bóc, trấn lột khắp nơi, chúng “vừa ăn cướp vừa la làng”.

Câu 3: Hình ảnh người dân khốn đốn, khổ cực, bị vu oan, bị đòi tiền trước những cuộc ăn cướp của bọn quan lại, tay sai.

+ Nhà giàu bị họ vu cho giấu của cung phụng, phải bỏ của ra kêu van chí chết.

Câu 4: Cảm nhận về tình trạng của đất nước thời vua Lê – chúa Trịnh.

– Thời đại phong kiến Lê Trịnh là thời đại thối nát, mục ruỗng, quan lại không chăm lo cho dân chúng mà ra sức cướp bóc, hà hiếp dân chúng.

– Vua chúa bày ra những trò lố lăng, kịch cỡm, tốn kém để ăn chơi, tiệc tùng.

– Nhân dân không chỉ chịu đói khổ mà còn chịu ấm ức bởi bị ấm ức vì bị bóc lột, ăn cướp.

→ Triều đại thối nát, mục riễng dự báo tiền đồ, triều ấy sụp đổ là điều không tránh khỏi.

ĐỀ ĐỌC- HIỂU CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ – SỐ 4:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

“ … Buổi ấy, có bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non.(…).Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng , ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền…”

Câu 1: Đoạn trích trên thuộc văn bản nào? Tác giả là ai?

Câu 2: Trình bày nội dung chính của đoạn trích trên?

Câu 3: Xác định phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên?

Câu 4: Tìm trong đoạn trích trên những câu văn nói về sự nhũng nhiễu dân của bọn quan lại hầu cận và nêu nhận xét của em về ý nghĩa của việc xây dựng những chi tiết ấy?

Câu 5: Hãy viết một đoạn văn ngắn ( khoảng 1 trang giấy thi ) trình bày suy nghĩ của em về lối sống xa hoa, lãng phí của một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ hiện nay.

Hướng dẫn trả lời:

Câu 2: Nội dung : Phản ánh đời sống xa hoa, sự áp bức, bóc lột  của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê.

– Họ sinh có nhiều cách diễn đạt khác nhau, đảm bảo tốt yêu cầu đều đạt điểm tối đa.

Câu 3: – Phương thức biểu đạt chính là tự sự

Câu 4: – Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng , ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền…

Học sinh nhận xét ý nghĩa: Tác giả muốn phơi bày mặt trái của bọn quan lại, phê phán thái độ ức hiếp, nhũng nhiễu dân của chúng

Câu 5:

Nghị luận xã hội 

  1. Yêu cầu về kĩ năng :

– Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận xã hội

– Bố cục và hệ thống ý rõ ràng

– Biết vận dụng nhiều thao tác nghị luận.

– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, không mắc lỗi diễn đạt, không sai chính tả, dùng từ, ngữ pháp, trình bày bài rõ ràng.

  1. Yêu cầu về nội dung : Trên cơ sở Học sinh bám sát vào văn bản ở trên để nghị luận về hiện tượng lãng phí.

– Mở đoạn : Giới thiệu về hiện tượng lãng phí

– Thân đoạn :

+ Giải thích về hiện tượng lãng phí trong xã hội và của một bộ phận không nhỏ học sinh hiện nay.

+ Nêu hiện trạng của hiện tượng ( tìm những biểu hiện về hiện tượng lãng phí)

+ Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên

+ Phân tích những tác hại của hiện tượng

+ Tìm ra hướng khắc phục

Kết đoạn : Khái quát lại hiện tượng, nêu nhận thức của bản thân.