Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu trong chương trình văn học lớp 9.
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu – Mẫu 1
Mở bài: Giới thiệu về bài thơ Đồng chí do nhà thơ Chính Hữu sáng tác
Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vừa cầm súng chiến đấu và cầm bút làm thơ, ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà nhiều thi phẩm đặc sắc về chiến tranh và người lính. Thơ Chính Hữu hàm súc, giàu tính tạo hình, giàu chất suy tưởng và có chất nhạc riêng độc đáo, khắc họa được tượng đài người lính sừng sững trên hành trình đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bài thơ Đồng chí được viết đầu năm 1948, sau khi Chính Hữu vừa tham gia chiến dịch Việt Bắc vô cùng gian khổ, ác liệt. Chính hiện thực cuộc sống kháng chiến gian lao và sôi nổi đó đã mang lại cho ông những cảm xúc chân thành về vẻ đẹp bình dị của người lính trong chiến tranh cách mạng và giúp ông thể hiện thành công một tình cảm cao đẹp mang dấu ấn thời đại: tình đồng chí.
>>Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu để thấy bài thơ đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
>>Phân tích bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu để thấy được tình cảm đồng chí, đồng đội được thể hiện sâu sắc trong bài thơ.
>>Phân tích biểu tượng đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Thân bài: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Tình đồng chí là một tình cảm cao đẹp của những người cùng chung chí hướng, cùng chung lí tưởng. Thời nào cũng có tình đồng chí nhưng trước đây trong thơ ca trung đại, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, tình bè bạn được khai thác nhiều hơn. Thời hiện đại, cùng với sự nghiệp; đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, một tình cảm được phát triển sâu rộng và được ngợi ca khẳng định nhiều nhất, ấy là tình đồng chí, đồng đội. Đây là tình cảm gắn bó thiêng liêng và bền chặt của những người cùng chung lí tưởng cách mạng, cùng sát cánh bên nhau chiến đấu cho sự nghiệp chung của dân tộc, của nhân dân.
Tình đồng, chí được hình thành trên cơ sở tình cảm giai cấp, sự tương đồng về cảnh ngộ:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Với những hình ảnh cụ thể, mang ý nghĩa hoán dụ, nhà thơ đã giới thiệu nguồn gốc xuất thân của hai nhân vật trữ tình. Họ đều là những người nông dân nghèo từ các miền quê khác nhau, có mặt trên các nẻo đường kháng chiến. Cái tôi trữ tình của nhà thơ đã hóa thân thành người nông dân mặc áo lính để viết những lời thơ tâm tình tặng bạn. Chọn một tâm thế biểu hiện như vậy, Chính Hữu đã có được những lời thơ chân thành, giản dị của những người trong cuộc, thật thấm thía, sâu nặng.
Quá trình nảy sinh và phát triển tình đồng chí được nhà thơ cắt nghĩa qua những hình ảnh của đời sống kháng chiến:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
Anh và tôi, hai người ở xa nhau về không gian, không hẹn hò, không quen biết. Vậy nhân tố nào đã làm hai người xa lạ thành đôi tri kỉ và thành đồng chí của nhau? Nhà thơ Chính Hữu đã giúp người đọc nhìn thấy, cảm thấy và hiểu được sâu sắc cơ sở của tình đồng chí. “Súng bên súng” là cùng chung nhiệm vụ, cùng chung chiến hào, cùng sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là cùng chung ý chí, là tâm đầu ý hợp, là cùng quyết tâm giải phóng Tổ quốc thân yêu. Gần gũi nhất là “đêm rét chung chăn” là cùng chung hơi ấm, cùng chung cảnh ngộ, là chia sẻ cùng nhau hơi ấm trong đêm. Tất cả những sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng tình, đồng ý ấy đã biến hai người xa lạ thành đôi tri kỉ và hơn thế nữa là hai đồng chí của nhau. Từ Đồng chí đứng trọn một dòng thơ như một lời đúc kết, như là đáp số, là lời giải của sáu câu thơ trên. Tình đồng chí thật rộng lớn, thiêng liêng và võ cùng thân thiết, gần gũi, máu thịt. Trong cuộc sống chiến đấu, có mối tình nào nặng hơn tình đồng chí, đồng đội?
Nếu sáu câu mở đầu đã cắt nghĩa cội nguồn, sự hình thành tình đồng chí thì mười câu thơ tiếp theo là biểu hiện cụ thể, cảm động của tình đồng chí trong hiện thực cuộc sống kháng chiến. Tình đồng chí ở đây cũng là tình đồng đội, tình cảm của những người cùng nhau chiến đấu chống kẻ thù. Tình cảm đó trước hết thể hiện qua sự cảm thông chia sẻ những nỗi niềm về gia đình, quê hương:”
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lưng lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Đối với những người nông dân mặc áo lính, nỗi nhớ quê hương bao giờ cũng gắn liền với hình ảnh thân thuộc gần gũi như ruộng nương, nhà cửa. Khi bước vào cuộc sống chiến đấu, họ phải tạm gác tình nhà vì nghĩa lớn, tạm xa những gì thân thiết ở làng quê của mình, lòng sao khỏi xót xa. Nhưng họ biết chấp nhận, biết hi sinh và vượt lên hoàn cảnh: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”. Lời thơ có vẻ ngang tàng nhưng vẫn có cái xót xa trước cái bất đắc dĩ của hoàn cảnh. Họ làm sao ở lại nơi tổ ấm khi quân thừ giày xéo đất nước quê hương. Họ đã nhất quyết ra đi nhưng lòng vẫn nặng tình nhà, vẫn lưu luyến với người thân, vẫn luôn nhớ “giếng nước”, “gốc đa” nơi quê nhà yêu dấu.
Câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” thể hiện rất đúng sắc thái tình cảm của người chiến sĩ ra đi từ làng quê. Họ nhớ về cảnh quê quen thuộc và cũng là nhớ về người thân yêu nơi thôn dã ấy. Tình cảm đó được thể hiện kín đáo qua biện pháp nhân hóa đậm màu sắc dân gian. Người lính nhìn về quê hương và biết rằng người thân ở quê hương cũng đang mong nhớ. Hai chiều nhớ thương ấy đều được gói gọn trong hình ảnh thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hiểu nhau, cảm thông chia sẻ cùng nhau những tâm tư về gia đình, quê những người đồng chí còn chia sẻ những gian khổ, khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống kháng chiến. Với bút pháp hiện thực và lời thơ bình dị, tác giả đã ghi lại những chi tiết sống động của hiện thực kháng chiến, những chi tiết tự nói lên những điều cảm động của tình đồng chí:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai .
Quẩn tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Những người lính thời kháng chiến chống Pháp phải đương đầu với những trận sốt rét ác tính, không ít người bị căn bệnh ấy cướp đi sinh mệnh của mình. Nhà thơ Chính Hữu có kể lại thời gian gian khổ đó: “Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khổ. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bồ áo cánh, dầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phải có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận tôi ốm, tôi phải nằm lại điều trị. Đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khi ốm nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí (Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, tr.136). Những hình ảnh, chi tiết trong bài thơ này đều được lấy từ cuộc đời thật của Chính Hữu và đồng đội. Sự chân thực của những chi tiết, sự mộc mạc của những hình ảnh và cách thể hiện tình cảm thầm lặng, chân tình đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ sâu sắc của bài thơ Đồng chí.
Nhưng tính sáng tạo và sức lay động mạnh nhất của thi phẩm này tập trung tỏa sáng ở mấy câu thơ kết:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đây là những hình ảnh rất thực và đồng thời cũng rất lãng mạn. Giữa cảnh hoang vu, tĩnh mịch và lạnh lẽo của núi rừng đêm đông hiện lên hình ảnh thân thiết, gắn bó của những người chiến sĩ sát cánh bên nhau canh giữ đất trời. Điều kì diệu là trong khi “chờ giặc tới”, người chiến sĩ đã bất ngờ gặp gỡ vầng trăng. Nhà thơ Chính Hữu kể rằng: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích giặc trong đêm, trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh “đầu súng trăng treo” (Nhà văn nói về tác phẩm). Tính sáng tạo của hình ảnh này trước hết là sự liên kết thật bất ngờ. Vầng trăng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca muôn đời nay. Nhưng vầng trăng ấy lơ lửng ở chân trời có lúc sà xuống treo vào đầu súng thì thật mới lạ thật bất ngờ, là một khám phá của nhà thơ Chính Hữu. Chữ treo ở cuối bài thơ quả thật là “nhãn tự” trong một “thần cú”: “Đầu súng trăng treo”. Treo là không bị buộc chặt, là lơ lửng, bay bổng lãng mạn. Treo cũng hợp với nhịp điệu 2/2 của câu thơ, cái nhịp đưa võng lơ lửng, chơi vơi trong mênh mông bát ngát của bầu trời. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” đã vượt lên ý nghĩa tả thực để trở thành một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng. Hình ảnh này gợi lên sự kết hợp giữa cái chân thực dữ dội của cuộc kháng chiến và sự bay bổng của tâm hồn người chiến sĩ, sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần chiến đấu và vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên.
Kết bài: Nêu cảm nhận về bài thơ Đồng chí
Sự kết hợp kì diệu giữa súng và trăng là một khám phá mới mẻ độc đáo, góp phần quan trọng tạo nên giá trị to lớn của bài thơ Đồng chí. Gần hai mươi năm sau, khi cho ra mắt một tập thơ dành trọn tâm huyết của cuộc đời cầm bút, Chính Hữu đã tâm đắc đặt tên tập thơ này là Đầu súng trăng treo (1966).
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu – Mẫu 2
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp nhân dân ta đã trải qua biết bao nhiêu gian khổ khi ấy không thể nào có những người thân trong gia đình mình chia sẻ giúp đỡ được mà khi ấy chỉ còn lại những tình cảm của những người lính với nhau. Tình cảm ấy chúng ta thường gọi là đồng chí. Văn học khi ấy cũng thực hiện nhiệm vụ của mình ca ngợi những tình cảm tốt đẹp của nhân dân ta. Và nhà thơ Chính Hữu đã dùng ngòi bút của mình viết lên những dòng thơ đầy cảm xúc về tình đồng chí trong bài thơ cùng tên.
Sáu câu thơ đầu nói về tình cảm đồng chí đồng đội cũng như quê hương của họ. Những người lính ấy không xuất phát từ những thành thị mà xuất phát từ nông thôn:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Quê hương của những người lính nông dân ấy chính là những miền quê với những cánh đồng chua và những đất nghèo sỏi đá. Nhà thơ đã chọn cách bắt đầu bài thơ bằng hình ảnh quê hương ấy để thấy được thân phận của họ. Nghệ thuật sóng đôi khiến cho quê hương của “anh” và của “tôi” trở nên nghèo đói như nhau. Và những con người nông dân ấy không hề quen biết nhau thế nhưng kháng chiến đi lính họ gặp nhau, sát cánh bên nhau từ chiến trường cho đến khi nghỉ ngơi. Và cứ thế họ trở thành những người tri kỉ của nhau.
Đó chính là tình đồng chí, đêm rét chung chăn, chiến đấu kề vai sát cánh bên nhau và thành tình đồng chí:
“Đồng chí!”
Câu thơ như tách bài thơ ra làm hai để quy nạp cho phần thơ đầu và diễn dịch cho những câu thơ còn lại. Một câu thơ mà chỉ có hai từ, điều đó thể hiện sự ca ngợi, sự định nghĩa tình cảm thiêng liêng ấy. Không cùng chung cha mẹ không cùng một quê hương nhưng họ gắn bó với nhau trong những năm tháng gian khố ấy họ lại chia ngọt se bùi cho nhau và trở thành những đôi tri kỉ.
Những câu thơ tiếp theo như thể hiện thêm khẳng định thêm tình đồng chí gắn bó keo sơn:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Những người lính ấy đã phải trải qua biết bao nhiêu là khó khăn vât vả, họ rời bỏ ruộng nương để cho bạn thân cày cấy hộ. Họ “mặc kệ” gian nhà gió lung lay kia, động từ ấy không phải là những người lính bỏ nhà mà quyết tâm ra đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước. Thế rồi hình ảnh giếng nước gốc đa như được nhân hóa có suy nghĩ có nỗi nhớ và thương đến người chiến sĩ. Hình ảnh ấy cũng giống như một ẩn dụ để nói đến những người mẹ người vợ ngày đêm nhớ thương con mình. Và trong hoàn cảnh chiến tranh ấy có biết bao nhiêu thiếu thốn về vật chất, áo anh thì rách vai, quần tôi thì có vài mảnh vá, có những cớn sốt rét rừng làm cho họ khổ sở. Thế nhưng họ vẫn cười trong sự thiếu thốn buốt giá ấy. Chân thì không giầy thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Không có gia đình ở bên thì họ chính là những người trao cho nhau hơi ấm tình thương.
Và chính bằng tình thương yêu ấy dù cho sương có buốt giá đến đâu, dù cho kẻ địch kia có gian ác tàn bạo đến đâu thì họ vẫn đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới. Hình ảnh đầu súng trăng treo là một hình ảnh nghệ thuật rất đẹp. Nó thể hiện ngọn súng kia như chĩa lên cao khiến cho mảnh trăng kia như đang được treo lên đầu ngọn súng ấy vậy. Không những thế mà ánh trăng kia còn là chính những người chiến sĩ ấy, họ như ánh trăng sáng soi trong đêm tối ấy. Vẫn đứng đó để chờ giặc tới.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Như vậy qua đây ta hiểu thêm về tình đồng chí của những người nông dân áo vải. Họ không chỉ biết cày cấy tăng gia sản xuất mà họ còn biết đánh giặc và biết yêu thương lấy nhau. Dù cho cuộc sống có thiếu thốn nhưng họ vẫn vui vẻ lạc quan cười trong sự buốt giá ấy. Vì trong họ ngoài tình yêu quê hương tổ quốc ra thì họ còn có một tình cảm nồng ấm xua tan mọi khó khăn ấy. Đó chính là tình đồng chí.