Đề bài: Đặc sắc bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
Bài làm
Trần Nhân Tông không chỉ ghi dấu ấn lịch sử là vị vua, vị anh hùng nổi tiếng chính trực, công bình phân minh, nhân ái thương dân mà còn là nhà thơ tiêu biểu của thời Trần. Một trong những tác phẩm nổi tiếng và đặc sắc của ông còn lưu lại đến thời nay đó là bài thơ Thiên Trường vãn vọng, hay còn gọi là Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra. Bài thơ được ông sáng tác trong dịp vị vua anh minh vi hành về thăm quê cũ ở Thiên Trường. Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả cảnh đẹp thôn quê buổi chiều tà, mà nó còn là tấm gương về lòng biết ơn và tình yêu quê hương.
Phiên âm
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Đặc sắc đầu tiên của bài thơ nằm ở hai câu đầu tiên là cảnh thôn xóm bình dị dân dã, bức tranh làng quê khi chiều về. Buổi chiều tà luôn là thời điểm “tức cảnh sinh tình” của các thi nhân bởi cảnh sắc mờ ảo, sự trầm lắng và huyền bí của thiên nhiên khi trời đất giao hòa từ ngày sang đêm và cũng là thời điểm bình yên nhất của con người khi sau một ngày làm việc mệt mỏi được quay về sum họp bên người thân gia đình. Địa điểm mà tác giả miêu tả ở trước xóm nhưng lại sau thôn, một nơi có thể nhìn bao quát cảnh vật, khi phóng tầm nhìn ra xa để bao quát trọn cảnh đẹp chiều tà , đặc biệt đây là quê hương của ông, là nơi ông đặt nhiều tình cảm nhất. Ở đây xuất hiện sự bao phủ của “khói lồng” là hình ảnh thân thuộc, gần gũi, bình dị và đặc trưng nhất của làng quê Việt Nam, nó gắn liền với sự ấm áp, sum họp của gia đình. Từ “man mác” thường được dùng để miêu tả về nỗi buồn tâm trạng con người, nhưng có lẽ trong hoàn cảnh này nó còn được dùng để miêu tả về một buổi chiều thôn quê yên bình và có đôi phần ảm đạm có lẽ cái man mác ở đây là cái cảm giác bồi hồi khi đã lâu rồi mới được trở về quê hương, khi những ký ức tuổi thơ ở nơi đây tràn về. Qua đó ta thấy được tâm tư của một vị vua trước cảnh đẹp, tạm gác lại việc triều chính để hòa mình vào phút giây lắng đọng hiếm có, đáng quý của đời người. Thôn xóm như đang dần nhạt nhòa trong sương khói và bóng chiều mập mùng dường như nửa có nửa không. Đó là một cảnh tĩnh rất đẹp, gợi nhiều cảm xúc.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Tác giả đã khéo léo sử dụng hai hình ảnh đặc trưng của làng quê Việt Nam đó là “mục đồng” và “cánh cò”. Trong rất nhiều tác phẩm dân gian như tranh vẽ, tranh thêu, đồ gốm,… ta đều thấy hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo nơi những cánh đồng cỏ. Điều đó cho thấy mối giao thoa giữa con người, động vật và thiên nhiên cùng với tinh thần sống luôn căng tràn của họ đặc biệt là những chú bé thôn quê luôn vui vẻ, yêu đời.
Thời điểm mà tác giả nhắc tới trong bài thơ là xế chiều, khi ấy mọi người đã kết thúc một ngày làm việc và các chú bé mục đồng cũng đã quay về sau một ngày chăn trâu . Đàn cò trắng “từng đôi” liệng xuống đồng làm ta liên tưởng đến đời sống thường nhật của con người chốn thôn quê. Tất thảy những cảnh vật đó đã vẽ nên một bức tranh có âm thanh, có màu sắc gợi nên cảnh quê thanh bình, hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
Tóm lại, cảnh chiều ở thôn quê đã được tác giả phác họa rất bình dị nhưng đã gợi nên được hồn quê sâu đậm. Đó là một làng quê thanh bình, trầm lắng nhưng đầy sức sống, là một ngôi làng tiêu biểu cho làng quê Việt xưa. Qua đó ta cũng có thể thấy tâm tư của tác giả- một vị vua gần gũi với thiên nhiên, với nhân dân, gắn bó với làng quê và cũng là một người con có hiếu của quê hương. Đó chắc chắn và đã là một vị vua tốt, yêu thương nhân dân, mang lại hạnh phúc thái bình thịnh trị cho đất nước.