Đề bài: Nhân vật trữ tình trong ba bài ca dao than thân than trách điều gì?
Mẫu số 1:
Ca dao là một phần rất quan trọng trong văn học dân gian Việt Nam. Qua những câu ca dao, chúng ta có thể nhìn thấy cuộc đời của những con người trong xã hội, thấy bao tâm trạng, bao khát vọng, lý tưởng, thấy được cái đẹp của biết bao hình ảnh, từ ngữ mà những người dân bình dị đã sáng tạo và gửi gắm. Ca dao Việt Nam rất phong phú, đa dạng, trong đó không thể không nhắc đến chùm ca dao than thân đã tồn tại và hiện diện từ lâu đời.
Đất nước ta đa phần làm nông, cũng vì thế mà hình ảnh người nông dân luôn gần gũi với con người và là nguồn cảm hứng cho rất nhiều sáng tác nghệ thuật. Những người nông dân có đời sống cơ cực đã đi vào ca dao dựa trên hình ảnh con cò:
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Câu ca dao thật hay, thật đẹp. Con cò là người bạn ruộng đồng của nông dân, màu trắng của lông cò gợi cho ta thấy sự trong trắng, chất phác của những con người của đồng ruộng. Qua câu ca dao, ta có thể thấy sự cần cù, chịu khó là bản tính của người nông dân, đồng thời là cuộc sống vất vả bấp bênh. Tác giả dân gian đã sử dụng rất nhiều từ ngữ gợi hình ảnh khổ cực của người nông dân như: “ lận đận một mình”, “ lên thác xông ghềnh” và đặc biệt là từ “thân cò”. Chỉ một từ thân cò cũng làm chúng ta hình dung ra dáng hình gầy guộc, lầm lũi của một kiếp người. Nghệ thuật đối lập lên-xuống như kéo dài thêm quãng đường đời vất vả khổ cực của những người nông dân bần cùng. Câu hỏi tu từ “ Ai làm cho bể kia đầy, cho ao kia cạn, cho gầy cò con?” không chỉ là một câu hỏi đơn thuần mà nó còn là một câu thốt lên nhẹ nhàng mà cay đắng, sâu sắc. Nó như một lời tiếc thương cho số phận hẩm hiu của người nông dân-khi mà cảnh nghèo khó bần cùng bám dai dẳng theo cả những đứa “ cò con” gầy guộc. Có thể nói, câu ca dao chính là lời than thân trách phận của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội.
Không chỉ riêng người nông dân, trong xã hội còn rất nhiều người rơi vào hoàn cảnh nghèo khó. Họ là những người có thân phận nhỏ bé, bần hàn. Họ được ví với những con vật đáng thương trong câu ca dao:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi nhả mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dẫu kêu ra máu có người nào nghe.
Hình ảnh con tằm nhả tơ gợi hình ảnh những con người phải lao động để phục vụ cho kẻ khác. Họ kiếm ăn lo cho cuộc sống của bản thân mình vẫn còn chưa đầy đủ, còn thiếu thốn nhiều mà vẫn phải bị sự chèn ép của những người có địa vị cao hơn, phải dùng công sức lao động của mình dâng cho kẻ khác. Hình ảnh con kiến cũng mang ý nghĩa tương tự, chỉ những thân phận nhỏ bé, suốt đời làm lụng mà vẫn cực khổ. Ta có thể hình dung ra sự lao động cực khổ, vất vả của người xưa đằng sau hình ảnh chim hạc-những cuộc đời phiêu bạt, lận đận, luôn cố gắng mà không có kết quả. Đỉnh điểm của sự đáng thương tột cùng đó chính là hình ảnh con cuốc kêu ra máu. Đó là những người bị oan trái, những lời bất bình từ những sự bất công sai trái trong xã hội, nhưng, “ có người nào nghe”. Đâu có ai thực sự lắng nghe, hiểu và cảm thông cho họ. Đâu có ai chấp nhận cho họ níu tay, giúp đỡ và dìu dắt họ qua kiếp khổ. Họ sống cô độc, lầm lũi, khổ sở và đau thương. Họ chịu uất ức, giày vò, khinh thường từ những người có thân phận lớn hơn. Có thể nói, họ nghèo, nghèo về vật chất lẫn về tinh thần. Cuộc đời họ luôn trong bóng tối mà không hề có lối ra.
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Hình ảnh người phụ nữ được khắc họa rõ nét trong câu ca dao trên. Xã hội phong kiến thời đó rất phủ nhận vai trò của người phụ nữ. Ta đã từng nghe câu quen thuộc “trọng nam khinh nữ”. Câu ca dao trên như thể nói lên tâm tình của người phụ nữ- trôi nổi, bấp bênh, xô đẩy giữa dòng đời. Những người phụ nữ thậm chí còn không được làm chủ cuộc đời mình, không được tự mình quyết định tương lai mà bị sự quản giáo, chèn ép từ người khác. Vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ không được nâng niu trân trọng. Họ phải gánh chịu những nghiệt ngã mà dòng đời xô đẩy “ gió dập sóng dồi” mà không biết tương lai mình sẽ ra sao “ biết tấp vào đâu”. Có thể nói rằng, tư tưởng của bài ca dao là tiếng kêu than thân đầy bi ai bất lực, là nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.
Ta có thể dễ dàng nhận ra những biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong các câu ca dao như ẩn dụ, so sánh, biện pháp đối lập,…làm tăng thêm giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật cho câu ca dao, giúp chúng trở nên dễ nhớ và sâu sắc hơn.
Những bài ca dao trên đã thể hiện tâm tư, nỗi lòng của nhân vật trữ tình- những con người nghèo khổ, cùng cực , thân phận thấp bé trong xã hội cũ. Từ đó ta có thể hiểu hơn về họ, cảm thông cho họ và trong lòng dấy lên một nỗi thương xót mỗi khi lời ca dao vang lên chầm chậm mà đi vào lòng người.
Nhân vật trữ tình trong ba bài ca dao than thân trách về điều gì – Mẫu 2
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam ca dao là một phần đóng vai trò quan trọng trong kho tàng ấy . Qua những câu ca dao chúng ta thấy được thực trạng của xã hội xưa, những tâm tư, tình cảm…trong kho tàng ca dao ấy không thể không nhắc đến chùm ca dao than thân đã tồn tại và hiện diện từ lâu đời.
Xưa kia đất nước ta đa phần làm nông nghiệp, do đó hình ảnh người nông dân luôn gần gũi với con người và là nguồn cảm hứng cho rất nhiều sáng tác nghệ thuật. Những người nông dân có đời sống cơ cực đã đi vào ca dao đằng sau hình ảnh con cò:
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Câu ca dao chính là lời kêu than đáng thương của những kiếp khổ. Lời trách cứ vang lên thật não nề. Họ trách thân phận cơ cực, làm việc vất vả nhưng chẳng thể nuôi đủ bản thân và gia đình. Họ trách những áp bức bất công trong xã hội phong kiến, họ trách những khó khăn cứ thế dồn dập chồng chất lên đôi vai gầy. Đâu đó như vang lên tiếng thở dài bất lực trong màn đen tĩnh lặng mà không hề có tiếng đáp trả, cô độc và hiu quạnh biết bao.
Không chỉ riêng người nông dân, trong xã hội còn rất nhiều người rơi vào hoàn cảnh nghèo khó khốn khổ. Họ là những người có thân phận nhỏ bé, bần hàn trong xã hội. Họ được ví von với những con vật đáng thương trong câu ca dao:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi nhả mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dẫu kêu ra máu có người nào nghe.
Hình ảnh con tằm nhả tơ gợi hình nhắc về những con người phải lao động để phục vụ cho kẻ khác. Hình ảnh con kiến cũng mang ý nghĩa tương tự, chỉ những thân phận nhỏ bé, suốt đời làm lụng mà vẫn quanh quẩn với cái khổ. Ta có thể hình dung ra hình ảnh lao động vất vả của người xưa đằng sau hình ảnh chim hạc- những cuộc đời phiêu bạt, lận đận, luôn cố gắng mà không có kết quả. Đỉnh điểm của sự đáng thương đến tột cùng đó chính là hình ảnh con cuốc kêu ra máu. Đó là những con người chịu sự oan trái, những lời bất bình từ những sự bất công sai trái trong xã hội, nhưng, “ có người nào nghe”. Đâu có ai thực sự lắng nghe và cảm thông cho họ. Đâu có ai chấp nhận giúp đỡ và dìu dắt họ qua kiếp khổ. Họ sống cô dộc, lầm lũi và đau thương. Họ chịu sự uất ức, giày vò, khinh thường từ những người có thân phận lớn hơn. Họ nghèo, nghèo về vật chất lẫn về tinh thần. Cuộc đời họ luôn trong bóng tối mà không hề có đường ra. Vì thế mà mỗi câu ca dao như thể một lời trách, trách số phận hẩm hiu, trách sự bất bình và cả sự bất công.
Người phụ nữ được nhắc đến rất nhiều trong ca dao xưa. Ví như câu:
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
là một lời than thân đáng thương biết mấy. Câu ca dao trên như thể đang khắc họa cuộc đời của người phụ nữ- trôi nổi, bấp bênh, xô đẩy giữa dòng đời. Những người phụ nữ thậm chí còn không được nắm giữ cuộc đời mình, không được tự mình quyết định tương lai mà bị sự quản giáo, chèn ép từ người khác. Vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ không hề được nâng niu trân trọng. Họ phải gánh chịu những khó khăn mà dòng đời xô đẩy “ gió dập sóng dồi” mà không biết tương lai mình sẽ ra sao “ biết tấp vào đâu”. Câu ca dao là một lời than thân mạnh mẽ về sự bất lực bất công, là lời trách cứ đầy tức giận của một lớp người không có tiếng nói trong xã hội. Có thể nói rằng, tư tưởng của bài ca dao là tiếng kêu, tiếng than thân đầy bi ai bất lực, là nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.
Những bài ca dao trên phần nào đã thể hiện tâm tư, nỗi lòng của nhân vật trữ tình- những con người nghèo khổ, cùng cực, thân phận thấp bé trong xã hội cũ. Ta nghe từng lời trách cứ vừa nhẹ nhàng mà cũng thật sâu sắc. Từ đó ta có thể hiểu hơn về họ, cảm thông cho họ và trong lòng dâng lên một nỗi thương xót mỗi khi lời ca dao vang lên chầm chậm mà đi vào lòng người.