Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan – Mẫu 1
Nền văn học trung đại nổi bật lên với nhiều gương mặt nhà thơ nam, nhưng bên cạnh đó cũng là sự xuất hiện của tên tuổi những nhà thơ nữ tài năng, có thể kể đến Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan. Tuy những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa vốn không được coi trọng nhưng bằng tài năng và trong nền văn học của nước nhà. Bài thơ Qua đèo ngang là một tác phẩm thơ nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan, nói về tình cảnh đơn độc của người con xa xứ và nối nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ tài năng dưới thời vua Minh Mạng, tài năng xuất chúng của bà đã được triều đình trọng dụng và được phân bổ chức Cung trung giáo tập, tức là một chức quan dạy lễ nghi cho các cung phi, cung chúa chốn thâm cung. Để nhận chức, bà đã phải rời quê hương đến kinh thành Huế, trên đường đi nhận chức bà đã dừng chân ở Đèo Ngang và sáng tác lên tác phẩm Qua Đèo Ngang:
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”
Hai câu thơ đầu tiên đã mở ra không gian, thời điểm đầy đặc biệt của bức tranh thơ. Thời gian mà Bà Huyện Thanh Quan lựa chọn trong bài thơ này đó chính là không gian của buổi chiều tà, đây là thời điểm bà dừng chân nghỉ ngơi, lấy sức cho hành trình dài. Nhưng cũng chính thời điểm chiều ta cũng gợi nhắc cho người ta nhiều suy tư, trăn trở. Cách nhà thơ miêu tả “bóng xế tà” gợi ra không khí chậm chãi, trầm buồn của không gian khi ánh sáng của một ngày bắt đầu lụi tắt.
Trong không gian ấy, khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang cũng khiến cho con người rợn ngợp, trống trải. Cảnh cỏ cây, hoa lá cùng chen nhau trên những phiến đá gợi ra sự phát triển mạnh mẽ, tốt tươi của sự vật nhưng đồng thời cũng tạo ra sự trống vắng, hoang sơ của trốn núi núi. Làm cho khung cảnh vốn tĩnh lặng lại càng trở nên buồn đến rợn ngợp.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Nếu như khung cảnh thiên nhiên núi rừng nơi đèo ngang khiến cho Bà Huyện Thanh Quan cảm thấy trống vắng, tịch mịch thì khi hướng cái nhìn về sự sống xung quanh lại mang lại cho tác giả cảm xúc của sự cô đơn, trống vắng. tác giả đã sử dụng các từ láy lom khom, lác đác để diễn tả sự ít ỏi, thưa thớt của những dấu hiệu sống, dấu hiệu của con người.
Vốn muốn tìm sự ấm áp trong không gian hoang lạnh nhưng khi nhìn về sự sống thưa thớt lại càng gợi lên sâu sắc sự cô đơn, khắc sâu thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Tiếng chim văng vẳng trong không gian đầy da diết gợi lên nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ nhà của thi sĩ. Một mình nơi đất khách lại đứng trước không gian mênh mông vắng lặng của càng khiến cho con người trở nên nhỏ bé, càng cảm nhận sâu sắc hơn nỗi cô đơn của mình. Tác giả đã sử dụng phép chơi chữ để làm nổi bật lên nỗi nhớ nhà của mình. Quốc trong tiếng kêu “quốc quốc” là nỗi nhớ hướng về đất nước, về quê hương. Còn “gia” lại gợi nhắc đến nỗi nhớ về gia đình.
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Dừng chân trong không gian núi trời mênh mông, bát ngát nhà thơ cảm nhận được nét đẹp của non sông gấm vóc của đất trời, tuy nhiên cũng chính không gian ấy lại làm sâu thêm nỗi cô đơn, lẻ loi của nhà thơ nơi đất khách quê người. Bởi những nỗi niềm, những tâm sự chẳng thể dãi bày cùng ai chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình.
Anh chị hãy phân tích bài thơ Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan – Mẫu 2
Bà Huyện Thanh Quan là một trong những câu bút vàng của nền văn học Việt Nam. Trong một lần vào Huế nhận chức qua con đèo vắt ngang từ Hà Tĩnh và Quảng Bình đó cũng là ranh giới tự nhiên của hai tỉnh, bước đến đèo ai cũng phải ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của nó, vẻ đẹp hùng vĩ núi non trùng điệp, đại dương bao la dưới nền trời xanh thẳm. Trước vẻ đẹp ấy bà đã sáng tác bài thơ Qua đèo Ngang.
Đằng sau bức tranh thiên nhiên kì vĩ đó là tâm trạng người thi sĩ cô đơn, nhớ nhà và biết bao hoài niệm về một thời huy hoàng đã qua. Có lẽ Qua đèo Ngang là bài thơ hay nhất trong các bài sáng tác về địa danh này.
Mở đầu bài thơ là hai câu miêu tả thời gian và địa điểm khi tác giả đặt chân tới nơi đây:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa”
Không gian và thời gian được tác giả thể hiện qua hình ảnh “bóng xế tà” là lúc chiều chiều mà hoàng hôn đã buông xuống, dường như thời khắc này lòng ai cũng nặng trĩu và mệt mỏi vừa kết thúc một ngày vất vả. Không gian mênh mang, hùng vĩ của đèo Ngang lại càng làm lòng người thêm gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong văn học Việt Nam cảnh chiều tà, cánh chim mỏi….. dùng để riêng tả nỗi buồn không biết chia sẻ cùng ai. Hoàng hôn xuống, cái bóng tối bao phủ lấy nơi này nỗi buồn, cô đơn, lạc lõng càng bám riết hơn làm lòng người cảm thấy hiu quạnh đến não lòng. Chỉ còn cỏ cây, lá, đá chen chúc, quấn quýt nhau để giành lấy sự sống sinh sôi, nảy nở. Hai câu đầu nói về khung cảnh thiên nhiên, đến hai câu sau tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của con người:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác trên sông chợ mấy nhà”
Đọc hai câu thơ, ta cũng cảm thấy có cái gì đó một chút gợi buồn man mác. Hình ảnh thấp thoáng “ tiều vài chú” đang lom khom dưới núi nhặt những cành củi khô, còn trên sông cũng chỉ có “lác đác” mấy ngôi nhà. Khi nói đến chợ ai cũng nghĩ tới hình ảnh nhộn nhịp, lời ra tiếng vào của những người bán hàng, nhưng ở đây dù ở chợ nhưng cũng chỉ có lác đác mấy ngôi nhà. Phép đảo ngữ ở hai câu thơ này, bà Huyện Thanh Quan đã nhấn mạnh một lần nữa sự hoang sơ, hẻo lánh của nơi đây làm tăng thêm nỗi buồn chơi vơi. Sự sống nơi đèo Ngang mong manh, hiu quanh và hoang sơ. Hình ảnh nơi đây như đã nhuộm nỗi buồn của người thi sĩ, sự sống nơi đây thật lẻ loi muốn tìm người bạn tâm sự mà cũng chẳng có. Hai câu thơ tiếp theo tâm trạng của tác giả như trỗi dậy:
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da”
“Nhớ” và “thương” là cảm xúc từ mỗi trái tim con người, nó làm tăng thêm nỗi niềm của tác giả khi nhớ về gia đình, nhớ về quê hương. Điệp từ “ cuốc cuốc”, “da da” đã tạo nên âm điệu du dương, dìu dặt làm lòng lư khách thêm tái tê. Thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh của tác được sử dụng một cách thật điêu luyện. Trên nền nhớ thương là tiếng chim kêu càng làm tăng thêm nỗi nhớ trong lòng người thi sĩ xa quê, tâm tình của tác giác giả thăm thẳm, mênh mang, day dứt không nguôi… Hai câu thơ cuối của bài thơ dường như tâm trạng của tác giả được đẩy lên đến đỉnh điểm:
“Dừng chân nghỉ lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Đọc hai câu thơ ta cảm thấy thật não nề trong lòng nặng trĩu nỗi buồn da diết không dứt. Tác giả dừng chân nghỉ lại thấy mình nhỏ bé lạc lõng giữa đất trời bao la rộng lớn không một nơi bám giữ, cảnh đất trời mênh mang khiến tác giả chỉ còn thấy “ một mảnh tình riêng” và mảnh tình ấy chỉ còn riêng “ ta với ta”. Một mình lạc lõng giữa thiên nhiên hiu hắt, nỗi buồn ấy dâng lên đến cực độ, xuyên thấu vào trái tim, buồn đến ngả nghiêng xoay chuyển đất trời.
Với giọng điệu tha thiết, tâm tình, lúc trầm lúc bổng kết hợp với các biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo, lấy động tả tĩnh, phép đảo ngữ, điệp ngữ….. đã mang đến cho bài thơ những cả xúc dạt dào đi thấu vào tấm lòng người đọc. Đọc bài thơ Qua đèo Ngang ta càng hiểu thêm được tấm lòng của người con khi xa quê hương và tăng thêm niềm tin yêu đối với quê hương mình.
Anh chị hãy phân tích bài thơ Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan – Mẫu 3
Trong nền thơ ca Việt Nam, Bà Huyện Thanh Quan là một trong những tác giả khá nổi tiếng. Người đọc đến Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ Qua đèo ngang. Bài thơ là nỗi niềm của tác giả trước cảnh chiều trên đèo ngang vắng vẻ thưa người.
Bốn câu thơ đầu là bốn nét vẽ về bức tranh cảnh đèo ngang khi Bà Huyện Thanh Quan có dịp ghé qua nơi đây. Bức tranh ấy hiện lên không chỉ có hình ảnh của thiên nhiên mà còn có hình ảnh của con người:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Khi nhà thơ bước tới đèo ngang trong chuyến lên kinh nhận chức. Có thể nói đây là lần đầu tiên nhà thơ xa nhà, xa quê. Bước tới đèo ngang thì mặt trời cũng ngả về tây. Đứng trên đèo ngang nhìn xuống nhà thơ trông thấy cảnh vật non nước nơi đây. Đó là hình ảnh của cỏ cây, của đá và hoa. Hiệp vần gần nhau “đá – lá” kết hợp với điệp từ chen trong câu thơ thể hiện sự sống của cây cỏ nơi đây. Trên những tảng đá những sinh vật nhỏ bé đang đua nhau sinh trưởng. Trong bức tranh ấy con người xuất hiện qua cá từ láy “Lom khom”, “lác đác”. Không những thế biện pháp nghệ thuật đảo cấu trúc ngữ pháp nhấn mạnh sự thưa thớt của con người.
Nếu như bốn câu thơ đầu thể hiện được bức tranh thiên nhiên cảnh Đèo Ngang thì bốn câu thơ sau thể hiện được tâm trạng của nhà thơ:
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Động từ “thương, nhớ” được đẩy lên đầu câu gắn liền với hai chữ nước và âm thanh “cuốc cuốc” “da da” thể hiện tấm lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Trong cảnh Đèo Ngang đẹp nhưng hoang sơ, rộng lớn nữ thi sĩ thấy nhớ nước thương nhà. Nhưng hành trình lên kinh thành còn xa, dừng chân nghỉ tạm trên đỉnh đèo ngang mà thấy thân phận con người nhỏ bé trước thiên nhiên rộng lớn. Một mảnh tình riêng chỉ có nhà thơ đối mặt một mình với mảnh tình ấy, chẳng có ai để san sẻ cả.
Như vậy có thể thấy, bài thơ Qua đèo Ngang thể hiện được tâm trạng của nhà thơ, nữ thi sĩ nhớ nhà nhớ nước trên hành trình lên kinh đô nhận chức. Ở đây, nhà thơ sử dụng biên pháp tả cảnh ngụ tình. Trong bức tranh thiên nhiên ấy ta thấy được tâm trạng buồn thương của tác giả.
Trên đây là 3 mẫu bài văn Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan. Tham khảo thêm bài viết liên quan:
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Hãy xem văn mẫu là tài liệu tham khảo để sáng tạo ra những bài văn hay của riêng mình các em nhé