Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài làm
“ Có một bài ca không bao giờ quên”
Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ, không phai mờ trong nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với tất cả sức lực, niềm say mê. Và một trong những con người để lại dấu ấn sâu đậm nhất chính là những người lính cụ Hồ – những người anh hùng dũng cảm đã hi sinh tuổi xuân, tính mạng cho nền hòa bình ngày hôm nay . Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã xây dựng nên một tượng đài bất tử về những người lính trong cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc.
Trước hết, Tây Tiến là tên một đoàn quân mà nhà thơ Quang Dũng từ tham gia trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đoàn quân được tập hợp những chàng trai sinh viên Hà Thành yêu nước mà Quang Dũng là đại đội trưởng.
Bài thơ được sáng tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng được chuyển đơn vị. Nỗi nhớ núi rừng, nhớ đồng đội đã thôi thúc Quang Dũng viết thành thơ. “Tây Tiến”. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà thành, Quang Dũng cùng như đồng đội, tác giả trở thành người lính đã xa mà rất gần để khi nhớ lại, tác giả đã bật lên.
“ Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!”
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến? Không! Đó tiếng của tác giả “ xa rồi Tây Tiến” ơi những tấm lòng thì vẫn thiết tha lắm! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng xoáy sâu vào tâm hồn người đọc. Người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
“ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “nhớ chơi vơi”! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp
“ Ra về nhớ bạn chơi vơi”
Nỗi nhớ” chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình khó năm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra khỏi không gian xoáy sâu vào lòng người. Một người ngoài cuộc không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi nhớ của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi với tấm lòng thiết tha thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lý.
Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ cũng không thể nào quên được những khó khăn gian khổ, nhớ về những cuộc hành quân. Và từ đây một loạt những địa danh đã được xa lạ “ Sài Khao” “ Mường Lát” “Pha Luông” tạo nên nét hoang vu cho khung cảnh núi rừng.
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Nhớ về Tây Tiến tác giả nhớ về những cuộc hành quân dài tiếp nối nhau. Ngày nối đêm, đêm nối đêm trải qua bao dãi dầu “đoàn quân mỏi” giữa biển sương mù miền Tây. Câu thơ như trùng xuống giọng văn đều đều, gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải. Câu thơ làm chúng ta tưởng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại được vút lên bởi một câu văn bằng:
“ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ đã xóa đi cái mệt mỏi của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Nhưng những khó khăn cứ rải trên đường người lính đi qua:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”
Câu thơ với “ khúc khuỷu” làm nên cảm giác con đường khó khăn quá! “dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của rừng núi, súng ngửi trời cộng vào tạo nên cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng nhẹ đi bởi câu vần bằng tiếp sau:
“ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vấn trắc. Âm hưởng đoạn thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi của thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội và hoang sơ của thiên hoang sơ nhiều người thầm nghĩ: Vậy người lính sống như thế nào?
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã diễn tả hết những khó khăn trong cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính.Trước gian khổ trên đường hành quân nhiều người đã nằm lại nơi rừng thiêng nước độc
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! người lính đã chịu nhiều gian khổ đã hy sinh những cùng tìm được cho mình một tư thế chết của chiến sỹ:
Gục bên súng mũ bỏ quên đời”
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói làm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần. Những hình ảnh sử dụng rất độc đáo là hình ảnh “ gục trên súng mũ” . Đây cũng là cách nói nhẹ nhàng và cũng là cách nói của người thanh niên tri thức lúc bấy giờ để gạt đi những đau thương và bước tiếp.
Nhưng sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn chưa hết nguy hiểm gian khó:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”. Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên như có tiếng bước chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó.
Nhưng nhớ về Tây Tiến không chỉ có những gian khó, mệt mỏi mà còn cả nghĩa tình quân dân, còn cả những niềm vui lạc quan .
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Quang Dũng đã nhớ về những kỷ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì đó nào nức, rộn rã.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đâu mất đi sau những kỷ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Có thể nói đây là những vần thơ đẹp nhất, nó đối lập với những gian lao của cuộc sống gian khổ nơi núi rừng.Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sỹ. Những kỷ niệm đó hẳn không bao giờ quên trong lòng người như vẫn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự tươi vui , người lính Tây Tiến con sống lãng mạn giàu chất thơ. Một dáng người trên độc mộc vào sáng sớm và buổi chiều sương, một khóm hoa bên nước lũ… tất cả đều nhẹ nhàng đi vào đoạn thơ.
Nét tinh nghịch vui tươi của những chàng trai ở Hà Nội ngay cả khi cận kề cái chết:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Những cơn sốt rét rừng đến nỗi trọc cả đầu, đến nỗi da xanh xao như màu lá nhưng họ vẫn sống. Sống để chiến đấu với bệnh tật đến, giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn “ giữ oai hùm” . Đoạn thơ đã ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh. Hình tượng thơ đối lập để khẳng định khí thế hiên ngang, anh hùng của những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp.
Nét dữ tợn của người chiến sỹ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tý nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật đau yếu nhưng chúng ta vẫn bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” đã làm mất đi vẻ yếu đuối của đoàn quân “không mọc tóc” và “xanh như tàu lá”, và mở ra những câu thơ tiếp theo:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đây chính là hai câu thơ hay nhất về người lính Tây Tiến. Hai câu đã nói lên được nét lãng mạn của người chiến sỹ vừa mang nét hào hùng. Mắt người chiến sỹ trừng nhưng không hề mang nét dữ mà đây chỉ là quyết tâm bảo vệ tổ quốc của họ. Họ sống, và hy sinh cho quê hương tổ quốc mình. Nhưng họ mơ về những “dáng kiều thơm” nơi Hà Nội từ hẹn hò, đây chính là động lực để họ tiếp tục chiến đấu nơi biên cương.
Giữa núi sông tráng lệ, bức tượng đài ấy đứng sừng sững càng làm tôn thêm vẻ đẹp kì vĩ và bất tử:
“ Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Những câu thơ đọc lên sao nghe bi thảm quá, bao người đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ “ viễn xứ” tạo nên sự xa xôi lạnh lẽo của rừng núi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời. Ta tưởng chừng như câu thơ sau không cất nổi nên mình, ngược lại:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang lại chút bi thương của những nấm mồ viễn xứ. Nếu câu thơ trước tạo nét “bi” thì những câu thơ sau đã tạo nên nét “tráng” . Những câu thơ trên đã tạo nên cái không khí có chút ngang tàn, thanh thản của người lính Tây Tiến.
“Áo bào tay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi những anh ra đi cho lẽ sống của mình nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất.” Họ về đất, đất như người mẹ giang nhẹ tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sỹ ngủ trong vòng tay mẹ. Câu thơ vì thế mà mất đi nét bi thảm vốn có. Có ai đó từng nói mỗi người lính mặc bộ quân phục chính là mặc áo quan mà sống vì khi họ ngã xuống chiếc áo chính là áo quan đưa họ về với đất mẹ. Anh chết đi quê hương ôm anh vào lòng, núi sông hát tiễn đưa anh
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Không có nước mắt tang thương chỉ có khúc ca độc hành đưa anh hòa với núi sông, hòa vào với đất mẹ.
“Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Hình ảnh Tây Tiến là hình ảnh ra đi của những người anh không bao giờ phai mờ trong tâm trí mỗi con người Việt Nam.
Bài thơ khép lại những âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồi ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những ta phẩm gặp lại nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Đấy là “Tây Tiến” với hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với hào khí dân tộc.
Tham khảo thêm bài văn mẫu hay liên quan đến đề bài phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Hãy xem văn mẫu là tài liệu tham khảo và sáng tạo ra bài văn hay của chính mình các em nhé. Chúc các em học sinh học văn thật tốt!
Leave a Reply