3 bài phân tích bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão (hay)

Bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão là một tác phẩm nổi bật trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, là tiếng lòng của một vị tướng quân đầy khí phách, dũng cảm, và trung thành với đất nước. Dưới đây là những bài văn Phân tích bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão.

Em hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão lớp 10 – Mẫu số 1

Tỏ lòng là một bài thơ hay của tướng quân, nhà thơ Phạm Ngũ Lão. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ nhưng ý nghĩa của nó lại vượt qua phạm vi chiều dài bốn câu thơ ấy. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành của một vị tướng quân tài giỏi vào sinh ra tử cùng thời đại mình.

Mở đầu bài thơ Phạm Ngũ Lão thể hiện lòng yêu nước, trách nhiệm của một người dân đối với triều đại mình:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
“Múa giáo non sông trải mấy thu”

“Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo, “kháp kỉ thu” là trải qua biết bao nhiêu mùa thu. Ở đây nhà thơ muốn thể hiện hào khí của thời đại mình. Một thời đại yên ổn hòa bình, nhân dân no đủ nhưng đồng thời cũng phải đối đầu với quân giặc hung hãn nhất. Đó chính là giặc Nguyên Mông. Bảo vệ đất nước là công cuộc trải dài biết bao nhiêu thế kỉ. Người quân tử cầm ngang ngọn giáo để canh giữ cho cả một chiều rộng của đất nước Việt. Ở đây bản dịch không sát nghĩa với ý thơ, “múa giáo” không thể hiện được sự oai hùng, uy nghi của việc cầm giáo để bảo vệ đất nước. “Mấy thu” không thể diễn tả hết ý nghĩa của “kỉ thu”. Sự nghiệp bảo vệ đất nước là lâu dài, “kỉ thu” vẫn mang nghĩa lâu dài và lớn hơn “mấy thu”.

Nếu câu thơ đầu nhà thơ nhắc đến trách nhiệm của bản thân nói riêng và nam tử thời Trần nói chung và phần nào thể hiện hào khí Đông A thì câu thơ thứ hai lại càng thể hiện rõ hào khí Đông A biểu hiện qua sức mạnh quân đội nhà Trần:

“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

Quân đội nhà Trần được chia làm ba thứ quân, mỗi người lính đều mang trong mình một ý chí chiến đấu bất khuất, anh hùng. Chính vì thế mà trăm người như một. Khi có sự đồng lòng, sức mạnh của ba quân không chỉ dừng lại ở sức mạnh thể chất mà nó còn là sức mạnh tinh thần, sức mạnh ý chí. Ba quân nhà Trần tựa như hổ báo, ý chí át cả sao Ngưu trên trời. Người Việt tuy nhỏ bé nhưng ý chí thì lúc nào cũng cao ngút trời. Bởi chiến tranh của ta là chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh để bảo vệ giang sơn của ông cha, bảo vệ nhân dân thoát khỏi những ách đô hộ áp bức.

Trước sức mạnh quân dân nhà Trần, trước trách nhiệm của một người nam tử với đất nước, nhà thơ suy nghĩ về phận nam nhi trên đời:

“Nam nhi vị liễu công danh trái”
“Công danh nam tử còn vương nợ”

Một nhà thơ ngông nghênh ngất ngưởng, thích làm những gì mình thích là Nguyễn Công Trứ cũng đã từng bày tỏ quan niệm về phận nam nhi trên đời:

“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Nếu như Nguyễn Công Trứ cho rằng làm trai là phải đi nam về bắc, đánh tây dẹp đông để có thể tung hoành ngang dọc khắp chốn đất nước thì Phạm Ngũ Lão cũng cho rằng chí làm trai phải có công với đất nước. Không chọn cách nói ẩn ý, Phạm Ngũ Lão trình bày rõ ràng mục tiêu, trách nhiệm của phận nam nhi. Công danh giống như một cái nợ của phận nam nhi trong thiên hạ.

Không chỉ vậy, nhà thơ còn thể hiện nỗi thẹn của mình khi so sánh với một vị tướng tài ba như Vũ Hầu:

“Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
“Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Vũ Hầu là Gia Cát Lượng người có công rất lớn bởi những kế sách uyên thâm của mình giúp tướng, giúp vua trị vì đất nước, chống giặc ngoại xâm. Bản thân nhà thơ tuy đã có nhiều công danh với đất nước. Nhưng khi so sánh với Vũ Hầu, nhà thơ lại cảm thấy thẹn vì chưa làm được những việc lớn lao như thế cho vua, cho nước. Ta có thể thấy ở Phạm Ngũ Lão một tấm lòng hết mình vì đất nước nhưng vẫn khiêm tốn.

Như vậy qua đây ta có thể thấy bài thơ Tỏ lòng là một bài thơ vừa thể hiện được hào khí Đông A hào hùng của một thời đại lại vừa thể hiện được tâm tư tình cảm của một vị nhà thơ – tướng quân dốc hết sức lực và tài năng của mình dành cho đất nước. Có thể nói Phạm ngũ Lão càng khiêm tốn bao nhiêu, thẹn bao nhiêu thì người dân càng yêu mến ông bấy nhiêu.

Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu số 3

Tỏ lòng la những tâm sự của một vị tướng trung quân ái quốc, ông đã lập được rất nhiều chiến công trên chiến trường. Không những thế ông có những quan điểm sống vô cùng tích cực về công danh của chí làm trai. Có lẽ nói đến đây thì chúng ta đã biết đó là ai. Đúng vậy đó chính là Phạm Ngũ Lão. Đối với ông mà nói những gì ông làm, những chiến thắng mà ông đạt được không to chút nào. Bài thơ tỏ lòng hay chính tiếng lòng của nhà thơ và phải nói rằng chính bài thơ đã làm cho người ta gọi ông thêm một chức danh nữa đó chính là nhà thơ.

Bài thơ tỏ lòng thể hiện rõ hào khí Đông A. Tất cả những dáng vóc con người cho đến hào khí mạnh mẽ đều thể hiện sức mạnh của con người cũng như quân đội nhà Trần. Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng vừa thể hiện được sức mạnh của quân đội nhà Trần, những ý chí của con người nhà Trần vừa thể hiện được những tâm sự từ tận sau đáy lòng Phạm ngũ Lão.

Hai câu thơ đầu mang đến cho ta những vẻ đẹp của con người nhà Trần từ vẻ đẹp của con người cá thể đến vẻ đẹp của tập thể quân đội. Qua đó ta thêm tự hào về những sức mạnh ý chí của quân đội ta:

“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu. ”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Hai câu thơ như vẽ lên những hình ảnh của những người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất không những hiên ngang mà còn bất khuất kiên cường. Trước tiên thì đó là vẻ đẹp của người anh hùng với cây giáo trong tay mình. Nhà thơ là một vị tướng quân vì thế cho nên qua câu thơ ta cảm nhận được cái người cầm giáo non sông kia chính là ám chỉ chính ông. Đối với Phạm Ngũ Lão mà nói thì cuộc sống của ông là phải cầm giáo để chấn an những quân xâm lược những kẻ bạo tàn giúp cho đất nước được yên ồn, nhân dân được thái bình. Hai chữ “hoành sóc” như thể hiện sự hiên ngang ấy, thế nhưng ở bản dịch lại làm giảm đi ý nghĩa của hai chữ hoành sóc ấy. Múa giáo không thể nào lột tả được hết cái dũng mãnh của hai chữ “hoành sóc”. Không những thế thì cầm ngang ngọn giáo thể hiện sự trấn an quốc gia sông núi hơn là múa giáo. Không những thế mà hình ảnh người anh hùng hiên ngang ấy lại còn cầm ngọn giáo ấy trong tay trải qua biết bao nhiêu thời gian để đánh giặc. Ngọn giáo ấy được đo bằng không gian non sông đất nước và chiều dài của lịch sử. Hình như giáo cũng có không gian sinh thành và có tuổi đời như chúng ta vậy.

Đến câu thơ thứ hai trong hai câu thơ đầu thì chúng ta lại thấy được một khí thế hào hùng như hổ báo át hết tất cả những gì cản trên đường họ:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Có thể hiểu là khí thế quân đội nhà trần lấn át cả ao Ngưu trên trời và cũng có thể hiểu là có thể nuốt trôi một con trâu. Khí phách ấy giống như một con hổ lớn có thể nuốt hết tất cả những tên giặc kia nếu chúng không chịu rút quân về nước. Binh tốt không những phải giỏi mà còn phải có một tinh thần tốt thì mới chiến thắng được. Cách hiểu thứ hai là khí chí của quân đội nhà trần khiến  át đi cả sao Ngưu Vương. Dù  hiểu theo cách nào đi nữa thì chúng ta đều biết được khí phách của quân đội nhà Trân là rất lớn.

Nếu như hai câu thơ đầu nhà thơ nói đến vẻ đẹp của quân đội nhà Trần tỏ rõ hào khí Đông A thì đến hai câu thơ sau nhà thơ thể hiện nỗi lòng của mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. ”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

Nói chung câu thơ kia là quan niệm về chí làm trai của nhà thơ trong cuộc sống này. Có thể nói chí làm trai ấy là một quan niệm chung cho tất cả những người anh hùng thời ấy. Nguyễn Công Trứ cũng từng nói:

“Đã có tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”

Đối với nhà thơ mà nói những gì ông làm cho đất nước chưa thấm thoát gì vì thế cho nên công danh nam tử còn đang vương nợ. Đó là cái nợ cho đất nước, là cái nợ với vua. Thế nên khi nghe thuyết kể về Vũ Hầu một người quân thần tài giỏi thì tác giả hãy còn e thẹn. Ta như khâm phục trước những phấn đấu của ông trong cuộc đời. Đối với chúng ta ông đã là người có tài lắm rồi nhưng đối với ông thì như thế vẫn là chưa đủ. Cuộc đời nam tử với ông phải làm được nhiều hơn thế mới xứng đáng là nam tử.

Qua đây ta thấy được tấm lòng trung quân ái quốc cùng vẻ đẹp hiên ngang mà nhà thơ thể hiện trong bài Thuật Hoài này. Hào khí Đông A như được thể hiện rõ hơn, đó là hào khí của một thời oanh liệt. Đồng thời Phạm Ngũ lão đã xây dựng được một hình ảnh những con người nhà trần khỏe mạnh hết lòng vì tổ quốc vì nhân dân

Bài viết liên quan:

>>Phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão và phân tích nỗi “thẹn” trong bài thơ.