Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận văn hay lớp 11

Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, thể hiện sâu sắc tâm hồn thi sĩ trước cảnh sông nước mênh mông và cảm thức về sự nhỏ bé, lạc lõng của con người giữa vũ trụ bao la. Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.

Mẫu số 1: Viết bài văn Phân tích Tràng Giang của Huy Cận.

Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.

Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài ihơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình.

Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 1940. Đúng như nhà thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này được sông Hồng, quãng Chèm Vẽ và những con sông khác gợi tứ. nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên.

Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường Giang (Trung Quốc), hay con sông dài nói chung. Trong Tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận mà trống rỗng khiến người ta chán chường.
Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thuở. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không gắn bó với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào? Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.

Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gãy, khô xác của thân cây.
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn,

Sông nước đều buồn.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ khổ đầu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Một cái cồn nhỏ (lại nhỏ!) lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu, càng thêm vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói, ông đã học được từ “đìu hiu” trong câu thơ Chinh phụ ngâm “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” cũng nói về cảnh vắng vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, chợ chiều làng xa mà lại đã càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng: nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh nắng chiều mà bản thân hai hướng lên xuống như không ăn nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng thêm cái vắng vẻ của bến sông. Cô liêu là vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn. Giữa các yếu tố đó đều có đặt dấu phảy (,).

Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hai bờ sông mênh mông không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ . Từ sóng, thuyền, củi, dòng trôi, đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, bến vắng… mọi vật có, nhưng không vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi bạc. Chữ “đùn” mượn từ thơ cổ của Đỗ Phủ, nói rằng mây trồi ra, lừng lững như núi trên trời có một vẻ đe doạ. Cánh chim bé nhỏ (lại bé nhỏ!) nghiêng nghiêng về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều mông lung bỗng trở thành hình có khối như có thể cảm nhận được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình?.

Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ hương tâm, chứ không phải tấm lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợi lên, như ta nói sóng dợn chỉ một chất lỏng xao động chuyển động dâng lên, uốn xuống. Dợn dợn là thấp, ý nói hô ứng với mấy chữ “sóng gợn”, “điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ. Chính vì vậy mà nhà thơ phiền lòng khi thấy người ta đọc chệch thành dờn dợn hay rờn rợn làm mất nghĩa câu thơ.
Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt nhìn con nước. Chữ vời, cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều:

Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?

Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn là từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Viết về câu thơ này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà địch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Nhà thơ dựa ý thơ Thôi Hiệu để nói ý mình.

Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huv Cận buồn hơn Thôi Hiệu, bởi Thôi Hiệu trông “khói sóng” mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thực ra, ai buồn hơn ai làm sao mà xác định được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi lên cảnh mù mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đằng là ý thức về thực tại, một đằng là ý thức về tình người.

Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Cái buồn toát ra từ những vật bé mọn, như những kiếp người cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la. Nhưng Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh đẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…), nhiều tương phản, nhiều động từ chỉ sức sống rộn ràng: sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng mọi vật chết chóc, ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ một sự mất mát các mối liên hệ có tính phổ quát gây nên. Một cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đời sống xã hội: xã hội cộng đồng truyền thống với vô vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.

 

Tràng Giang là một bài thơ rất hay của Huy Cận cũng như kho tàng văn thơ Việt Nam. Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận để thấy điều đó.

Mở bài: Giới thiêu tác giả và tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận

Trong làng thơ mới Việt Nam (1932-1945)thơ Huy Cận có lẽ buông hơn cả. Nỗi buồn trong thơ ông bắt nguồn từ những cảm nhận sâu xa tinh tế về thân phận lạc loài cô đơn của cái tôi lớn lao vừa nhỏ bé trước cái mênh mông vô tận của đất trời; xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa.

Thân bài: Phân tích Tràng Giang – Huy Cận

Tràng Giang là một trong  những thi phẩm hay nhất của Huy Cận, kết tụ nỗi buồn mênh mang thiên cổ được diễn đạt bằng một hình thức thơ trang trọng cổ kính đậm đà cốt cách đường thi mà kém phần giản dị và độc đáo in rõ dấu ấn của thơ lãng mạn đương thời.

Bài thơ Tràng Giang do con sông Hồng gợi tứ. Lúc đầu bài thơ có nhan đề là chiều bên sông, nhan đề ấy cụ thể quá ít sức gợi. Sau đó tác giả đổi thành Tràng Giang. Thi đề này gợi lên không khí cổ kính cổ xưa, trang trọng, vĩnh hằng. Dường như dòng sông ấy đã chảy từ xa xưa của lịch sử, đã đi qua bao nền văn học trải qua biết bao nhiêu áng văn cỗ xưa. Không chỉ thế mà khi điệp âm “ang” là một âm tiết mở có độ vang xa khiến dòng sông mênh mang hơn, âm hưởng hơn, vĩnh hằng hơn trong tâm trí người đọc.

Nỗi niềm ấy còn được lắng đọng hơn, tha thiết hơn bởi câu thơ đề từ “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Trước cảnh trời rộng sông dài, trước cái bát ngát vĩnh hằng của thiên nhiên lòng người bỗng dấy lên một tình cảm bâng khuâng nhung nhớ. Từ láy “ bâng khuâng” diễn tả rất chúng tâm trạng của chủ thể trữ tình: vừa buồn bã u sầu cô đơn lạc lõng. Con sông dài ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ và gây ấn tượng mãi trong lòng người đọc.

Bài thơ được mở đầu với một Tràng Giang mênh mông sóng nước:

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Khổ thơ tô đậm thêm phong vị cổ điển cho thi phẩm nhưng cũng mang đến những nét hiện đại của thơ mới. Câu thơ mở đầu mang đậm hương vị cổ xưa. Đọc câu thơ đó lên ta liên tưởng đến câu ca dao “ Sóng bao nhiêu gợn dạ sầu bấy nhiêu”. Từ láy “ điệp điệp” gợi hình ảnh những con sóng cứ loang ra, lan ra hòa mình vào lòng Tràng Giang rồi tan biến mất. Sóng ở Tràng Giang không giống với sóng ở vùng biển Diêm Điền của nhà thơ Xuân Quỳnh. Nó không mang vẻ lặng lẽ và dịu êm, khi lại ồn ào đấy mà sóng ở đây chỉ gợn thôi. Bản thân mang một cái gì đó rất êm đềm nhưng lại rất buồn. Cảnh buồn hay chính tâm trạng của tác giả đang buồn đã nhuốm màu lên cảnh vật hiền cho cảnh tượng êm đềm kia mang một nét buồn phảng phất phả vào lòng người đọc.

Trước cảnh sông nước hiện lên một con thuyền mái nước song song, từ láy ấy mang đến cho ta một hình ảnh con thuyền lặng lờ trôi trên dòng sông ấy hai bên thuyền  những làn nước như được tẽ ra làm đôi, chạy song song theo mái thuyền. Xưa nay thuyền và nước vốn là sự vật không thể tách rời nhau cả trong thi ca cho đến ngoài cuộc sống. Thế nhưng ở đây chúng lại không hề ăn nhập vào nhau. Thuyền về thì nước lại thể hiện sự chia li đôi đường. Tác giả thể hiện động từ đối lập giữa hành động của thuyền và nước càng nhấn mạnh thêm sự chia li nghiệt ngã ấy.

Ở đây nhà thơ đã biến cái vô lí để diễn tả tâm trạng của mình. Và trước sự mênh mang của sông nước hình ảnh một cành củi khô hiện lên thật diễn tả thật đúng tâm trạng của tác giả. Đó là tâm trạng lạc lõng, buồn thương cô đơn, nhỏ nhoi trước dòng đời mênh mông ấy “ Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cành củi kia như tượng trưng cho số phận của con người, nó trôi nổi trên dòng sống ấy, lạc lõng bơ vơ giữa mấy dòng nước cũng như nhà thơ đang trôi nổi trên dòng đời và mang một niềm cô đơn lớn.

Nỗi buồn ấy không chỉ ở trên sông nước mà nó còn lan truyền lên cảnh vật, bầu trời, phiên chợ:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. ”

Từ láy “lơ thơ” gợi lên trước mắt chúng ta một hình ảnh rời rạc thưa thớt đến rợp người còn đìu hiu diễn tả sự hiu hút vắng teo. Nhà thơ đã đặc biệt khéo léo khi xếp hai từ láy này trên cùng một câu thơ khiến cho cảnh vật vốn đã rất buồn rất vắng lặng thì lại càng vắng lặng heo hút hơn. Đến cơn gió kia cũng tằn tiện mà thổi nhẹ đên mức đìu hiu. Đâu đó ở ngoài xa tiếng làng đã vãn chợ chiều. Nó không còn vẻ ồn ào như buổi đầu chợ nữa, đến âm hưởng nó cũng không cần nữa, mà nó chỉ còn sự thưa thớt vắng vẻ mà thôi.

Tất cả những thứ ấy làm cho bài thơ vốn buồn lại càng buồn hơn. Hình ảnh ở câu thơ thứ ba hiện lên thật đẹp và lạ. Đó là khi ánh nắng từ những áng mây kia chiếu xuống dòng sông làm cho bầu trời cao rộng hơn, ta cảm thấy một cảm giác rất thoải mái ở đây, sự thoáng đạt thanh bình của làng quê. Thế nhưng nó lạ ở chỗ là khi tác giả dùng tính từ “sâu” để chỉ sự cao của bầu trời. Thường thì người ta hay nói trời cao chót vót chứ chẳng ai nói là sâu cả nhưng ở đây nhà thơ lại nói là sâu. Câu thơ ấy, tính từ ấy không mang đến sự sai lầm mà nó mang đến sức gợi lớn. nói như thế để truyền tải ý đồ nghệ thuật của tác giả. Khi ánh nắng buông xuống trời cao lên khiến cho nhìn nó sâu thăm thẳm vậy. Đó là một không gian ba chiều mà Huy Cận cố tình gây dựng nên. Con sông ấy có sự dài, rộng, cao. Nhưng cao rộng dài bao nhiêu thì cô liêu đến bấy nhiêu!

Nỗi buồn tiếp tục đương thấm nhầm sang khổ thứ ba, một loạt những hình ảnh lại được hiện lên nhưng nó đều nhằm nói lên một tâm trạng:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Nước không chỉ gắn liền với hình ảnh của thuyền mà nó còn có thêm hình nah những đám bèo trôi, bèo dạt mây trôi nó vốn dĩ từ trước đến nay đều có nhưng nhà thơ lại hỏi nó trôi về đâu. Hỏi bèo hay nhà thơ hỏi chính bản thân mình không biết sẽ đi đâu về đâu trước dòng đời mênh mông ấy. trước sự rộng lớn của đất trời không có một chuyến đò ngang nào làm cho chúng ta thấy càng cô quạnh biết bao nhiêu. Trên dòng sông Giang ấy cung không có một con cầu nào để sang bờ. Nó cứ lặng lẽ nối tiếp hết bờ xanh lại đến bã vàng. Qua khổ thơ Huy Cận đã đem đến cho chúng ta một cảnh tượng rất dễ tìm thấy trên những dòng sông, nó cứ nhịp nhàng thoi đưa một cách lặng lẽ như thế. Cảnh vật thật thơ mộng và trữ tình nhưng than ôi nó vẫn chứa đựng một tâm trạng âu lo đến buồn bã.

Khổ thơ cuối được cất lên và khép lại nội dung và nghệ thuật của Trang Giang đồng thời nó thể hiện tâm trạng sâu kín của tác giả:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. . .
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. ”

Bút pháp chấm phá với “mây cao” và”núi bạc” khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như giáp bạc. Hình ảnh mang nét cổ điển được nhà thơ khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Hình ảnh những đám mây đùn đùn lớp lớp trên bầu trời trông thật đẹp, trên nền tuyệt vời ấy chim nghiêng cánh nhỏ bay về tổ ấm của mình. Cánh chim ấy như nói lên khoảnh khắc bóng chiều đang dần buông xuống. Trước cảnh vật ấy tâm trạng của nhà thơ được đúc kết qua hai câu thơ cuối. Cái màu của buổi chiều cái êm ả của sông nước khiến cho nhà thơ “dợn dợn” nhớ đến quê nhà.

Kết bài: Cảm nhận bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Có thể nói Tràng Giang là bài thơ hay nhất trong tập lửa thiêng – ngọn lửa vĩnh cửu tỏa sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ như một bức họa tứ bình tuyệt tác. Bài thơ mãi đi vào lòng người với nét đẹp cổ kính kết hợp với nét đẹp hiện đại. hơn nữa nó còn thể hiện tâm trạng của nhà thơ Huy Cận.

Bài viết liên quan:

>>Anh/chị hãy cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận văn học 11
>>Những bài viết liên quan đến bài thơ Tràng Giang của Huy Cận