Bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy là một tác phẩm hay viết về cây tre. Qua những vần thơ giản dị mà sâu sắc, nhà thơ đã khắc họa cây tre không chỉ là một loài cây quen thuộc trong đời sống mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, của sự bền bỉ và kiên cường trước thử thách. Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy.
Phân tích bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy – Mẫu số 1
Cây tre là một loài cây vô cùng quen thuộc với đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam, đặc biệt phổ biến ở những vùng quê nghèo. Cây tre không chỉ hữu ích trong sinh hoạt, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp mà trong chiến tranh tre còn là những vũ khí lợi hại khiến cho quân địch vô cùng khiếp sợ. Không biết từ bao giờ cây tre cũng đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam. Viết về hình ảnh cây tre, nhà thơ Nguyễn Duy không chỉ thể hiện được vai trò của tre trong đời sống mà còn dựng lên được biểu tượng độc đáo về cây tre trong bài thơ “Tre Việt Nam”.
Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Du đã thể hiện sự trăn trở, suy tư về nguồn gốc, thời điểm xuất hiện của cây tre:
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa…đã có bờ tre xanh”
Hình ảnh những hàng tre xanh đã trở lên vô cùng quen thuộc với con người Việt Nam,đặc biệt là ở những vùng quê. Người ta chỉ biết tên gọi, đặc điểm của tre mà ít ai biết được nguồn gốc, cũng như thời gian xuất hiện của cây tre. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã thể hiện sự băn khoăn về điều này “Tre xanh/ Xanh tự bao giờ”. Trong những câu chuyện kể của bà, trong những khúc hát ru của mẹ cây tre đã xuất hiện nhưng thời gian nó xuất hiện là bao giờ thì không ai biết được.
“Thân gầy gộc, lá mong manh
Mà sao lên lũy, lên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu”
Nếu như ở khổ thơ đầu, tác giả thể hiện sự trăn trở về thời gian xuất hiện của cây tre thì ở khổ thơ tiếp theo, tác giả đã nói đến những đặc tính đầy đặc biệt của cây tre. Tre là loài cây có thân nhỏ, dài, có đốt, lá nhỏ và dài “Thân gầy gộc, lá mong manh”. Mong manh là vậy nhưng tre vẫn tạo thành những bụi tre, lũy tre đầy kiên cố. Nói về sức sinh tồn mạnh mẽ của cây tre, tác giả đã thể hiện sự cảm thán về sự kiên cường, mạnh mẽ ấy. Tre có thể tồn tại ở bất kì điều kiện khắc nghiệt nào, dù đất sỏi, đá vôi thì tre vẫn vươn lên xanh tươi.
“Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chất dồn lâu hóa nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre cao nhiêu rễ, bấy nhiêu cần cù”
Đến đây, ta có thể thấy nhà thơ Nguyễn Duy không đơn thuần nói về cây tre nữa mà nó đã trở thành biểu tượng tính cách của con người Việt Nam, cần cù, kiên cường. Theo cách lí giải của nhà văn, đất cằn cỗi vốn không làm khó được sự vươn lên của những cây tre bởi chúng biết tận dụng được những yếu tố tự nhiên của đất “Mỡ màu ít chất dồn lâu hóa nhiều”, kiên cường tồn tại, khăc phục những khó khăn cũng như những con người Việt Nam trong việc khắc phục tự nhiên, xây dựng cuộc sống cho mình. Và quan trọng hơn hết là tre không chê đất nghèo, hoàn cảnh sinh tồn khó khăn thì sự cần cù, kiên cường được đẩy lên cao độ. Hay nói cách khác hoàn cảnh sống đã tạo nên sự kiên cường, bất khuất của tre.
“Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà lên hỡi người”
Từ đặc tính sinh tồn của loài tre, thường sống thành cụm, thành lũy. Vì sống quần thể như vậy nên tre dù mỏng manh, nhỏ bé nhưng không có bão giông, mưa lớn nào có thể quật ngã nó. Từ đặc tính của tre, nhà thơ Nguyễn Duy hướng người đọc đến những con người Việt Nam, đó là những người dân nghèo cùng sống trong một hoàn cảnh nhiều khó khăn nhưng họ luôn đoàn kết cùng nhau sinh tồn cùng nhau chiến đấu bảo vệ cuộc sống của mình. Đây cũng là lí do vì sao Thực dân Pháp và đế Quốc Mĩ là những cường quốc với vũ khí hiện đại, tối tân nhưng đều thất bại trước dân tộc Việt Nam nhỏ bé. Con người Việt Nam luôn đề cao tinh thần đoàn kết, thế hệ sau kế thừa những truyền thống tốt đẹp của thế trước:
“Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu”
Bài thơ Tre Việt Nam của tác giả Nguyễn Duy không chỉ hướng đến việc miêu tả hình ảnh, đặc tính sinh học của cây tre. Mà qua hình ảnh cây tre tác giả còn hướng người đọc đến hình ảnh của những con người Việt Nam trong đời sống sinh hoạt, sản xuất cũng như sự kiên cường trong chiến đấu.
Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy – Mẫu số 3
Nhắc đến Nguyễn Duy ta thường nhớ đến bài thơ Ánh Trăng thế nhưng ngoài bài thơ ấy Nguyễn Duy còn mang đến cho chúng ta một bài thơ hay không kém và đặc biệt nó còn có ý nghĩa nói đến nhân dân ta. Đó chính là bài thơ Tre Việt Nam. Nói về hình ảnh làng quê của đất nước ta không thể thiếu được hình bóng của những cây tre cao vút, mọc thành khóm thành cụm bên nhau. Bài thơ là những nét về cây tre ấy nhưng đồng thời nó thể hiện cho phẩm chất vẻ đẹp của con người Việt Nam ta.
Nhà thơ bắt đầu bằng hai từ tre xanh. Và tiếp đến là câu hỏi cây tre xanh ấy có từ bao giờ:
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa. . . đã có bờ tre xanh”
Hai tiếng tre xanh gợi lên cho những con người Việt Nam chúng ta một cảm xúc vô cùng bâng khuâng chạnh lòng mà nhớ đến những huyền thoại bên cạnh những cây tre ấy. Nhà thơ hỏi tre có tự bao giờ và trả lời bằng câu có từ ngày xưa rất xưa rồi. Cách mở đầu đi thẳng vào hình ảnh tre xanh đã làm hấp dẫn người đọc bởi vì tre xanh đối với nước ta mà nói quả thật là thứ cây đại diện cho những chiến thắng những đấu tranh bền bỉ lâu dài.
Nguyễn Khoa Điềm cũng nói “ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”. Hay tre xanh còn đi vào những huyền thoại như Thánh Gióng, cây tre trăm đốt…Tóm lại cây tre xuất hiện lúc khi con người nhận ra những vẻ đẹp của nó.
Đến những câu thơ tiếp theo Nguyễn Duy vẽ lên những vẻ đẹp của tre xanh và qua những vẻ đẹp ấy ta thấy được những phẩm chất của con người Việt Nam ta:
Thứ nhất là vẻ đẹp của màu sắc, hình dáng của những cây tre xanh nước ta:
“Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
Cây tre Việt Nam hiện lên với thân hình gầy guộc mong manh. Tre thanh cao, nhẹ nhàng trước gió. Những tính từ ấy khiến cho ta liên tưởng đến những khóm tre xanh lá nhỏ thân cao thẳng tắp gầy guộc nhưng lại thẳng đứng như thế đấy. Thế nhưng tre vẫn thành lũy thành bờ dù cho đất đai khô cằn, dù cho đá vôi có bạc màu đất thì tre vẫn xanh tốt như thế. Ở đây ta thấy được phẩm chất của con người Việt Nam chúng ta, trong xã hội con người nếu như nói về thân phận thấp cổ bé họng thì chúng ta ví như củ sắn, củ khoai nhưng nói đến sự thanh cao ngoài trúc, mai ra thì chúng ta còn nhắc đến cây tre. Dáng hình gầy guộc thẳng tắp mong manh kia như thể hiện được sự phẩm chất của con người. Đó là con người Việt Nam ta nhỏ bé nhưng lương tâm thì ngay thẳng như cây tre và dù sống ở đâu thì chúng ta vẫn cứ sống tốt dẫu cho đất đá có khô cằn thì cây tre kia vẫn xanh, con người Việt Nam vẫn sống chan hòa với nhau.
Thứ hai, cây tre Việt Nam có sức sống mãnh liệt, con người Việt Nam cũng vậy:
“Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hóa nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm”
Sức sống của tre xanh vượt qua biết bao nhiêu là sự nghèo khổ. Đất đá kia bạc màu không dưỡng chất nhưng tre vẫn xanh tươi vì rễ kia siêng tìm nguồn dinh dưỡng. Cho nên đất có nghèo thì tre vẫn xanh tốt mà thôi. Và khi ấy tre vẫn vươn mình đu đưa theo những ngọn gió, tre in mình lên những khoảng trời xanh tôn lên vẻ đẹp thanh bình của làng quê Việt Nam. Và cứ như thế tre xanh Việt Nam cao vút trên nền trời và không bao giờ đứng khuất bóng râm của một loài cây nào khác bởi chính tre cũng cao lắm rồi. Trước mắt ta Nguyễn Duy đã vẽ lên một bức tranh tre xanh cao vút trên nền trời xanh, cái màu xanh của tre hòa quyện với cái màu xanh của bầu trời , tre đu mình theo gió tạo nên một cảnh sắc bình yên vốn có của nước ta. Và qua những hình ảnh ấy Nguyễn Duy muốn nói đến phẩm chất của con người. Đó là phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta tuy nhỏ bé hiền lành thế nhưng cho dù nghèo đói cũng không chịu đứng bóng râm của ai, không chịu luồn cúi mà sống ngay thẳng đôi chân bước đi, đôi tay kia tìm việc để lo cho cuộc sống. Sự cần cù đối với nhân dân ta là một đức tính không thể thiếu.
Thứ ba là vẻ đẹp của những khóm tre san sát bên nhau, bao bọc lấy nhau trước những sóng gió nắng mưa của đất trời:
“Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con”
Tre ở đây như được nhân hóa có tay có tình cảm của con người. Những cây tre vẫn ôm lấy nhau níu lấy nhau vượt qua giông tố của cuộc đời. Nó thể hiện sự đùm bọc yêu thương lẫn nhau của tre. Tre không đứng một mình, không ở riêng mà sống thành lũy thành khóm. Và khi tre có gẫy cành rụng lá thì vẫn để lại cái gốc cho măng mọc lên tiếp tục sinh trưởng phát triển lên. Hình ảnh so sánh tre như chông thể hiện sự sắc nhọn và thẳng tắp của cây tre. Hình ảnh những lá bao bọc măng của tre được ẩn dụ thành manh áo cộc thể hiện sự nhường nhịn cho con. Cây tre ấy lại như một người mẹ yêu thương con, nhường nhịn cho con. Nó cũng giống như người mẹ Việt Nam với chiếc yếm hở lưng trần, còn manh áo cộc thì nhường cho con hết. Phẩm chất ngay thẳng, truyền thống nối nghiệp ông cha, duy trì nói giống “tre già măng mọc” của nhân dân ta được thể hiện rõ. Đồng thời qua hình ảnh cây tre ta còn thấy được sự đoàn kết của nhân dân ta, chúng ta sống thành những gia đình lớn chứ không hề ở riêng lẻ. trước những sóng gió thì bao bọc lấy nhau như “lá lành đùm lá rách”.
Khổ thơ cuối nhà thơ miêu tả hình ảnh măng non như biểu tượng cho những thế hệ thiếu niên nhi đồng:
“Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau. . .
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”
Sự truyền nối tre già măng mọc là truyền sinh tồn của tre, những búp măng mới nhú cũng đã mang những dáng hình của tre rồi. Và năm tháng qua đi cho đến mai sau thì thì đất vẫn mang một màu xanh của những cây tre xanh ấy. Điệp từ mai sau kết hợp với câu thơ cuối với điệp từ “xanh” thể hiện cảnh vật nước Việt luôn xanh màu tre xanh. Con người Việt Nam những thế hệ thiếu niên nhi đồng lớn lên cũng mang những dáng hình của ông bà tổ tiên và đến mai sau nữa thì phẩm chất con người Việt Nam vẫn mãi đẹp như cây tre ấy.
Qua đây ta thấy Nguyễn Duy không nói tre xanh như Thép Mới : “Tre anh hùng lao đông, tre giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” mà đi miêu tả sức sống bình thường của tre để qua đó vẫn thấy lấp lánh những phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam ta.
Tham khảo thêm những bài văn mẫu hay liên quan:
Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Tre Việt Nam của tác giả Nguyễn Duy.