Đoạn trích “Lẽ ghét thương” trong truyện Lục Vân Tiên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện rõ tư tưởng, tình cảm và quan niệm sống của Nguyễn Đình Chiểu. Đề bài: Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Mẫu số 1 – Phân tích bài Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Nguyễn Đình Chiểu là cái tên khi nhắc đến chúng ta không thôi ngưỡng mộ trước tài năng của ông. Nguyễn Đình Chiểu như một ngôi sao sáng trên nền văn học của nước ta. Với những quan điểm tích cực cùng với những thể loại phong phú Nguyễn Đình Chiểu không chỉ thành công với văn tế mà còn thành công với thể loại truyện thơ. Trong tác phẩm truyện thơ ấy chúng ta có thể biết đến đoạn trích lẽ ghét thương thể hiện những tâm tư tình cảm của ông quán trọ, đồng thời nó cũng thể hiện lẽ ghét thương của nhà thơ.
Lẽ ghét thương được trích từ truyện lục vân tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Đoạn trích nói lên sự ghét và sự thương của ông bán quán nước. Hoàn cảnh để ông lão bày tỏ lẽ ghét thương của mình là khi bắt gặp Lục Vân Tiên cùng với Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thi thố với nhau. Đến khi Trịnh Hâm và Bùi Kiềm thua thì lại chấp nhận mà đổi cho bên Lục Vân Tiên gian lận. Chính vì thế ông quán thấy bất bình và lên tiếng thể hiện sự ghét thương của bản thân mình.
Có thể nói ở đây ta thấy tác giả đã nhờ ông quán kia nói lên cái sự ghét thương của bản thân mình. Ông quán kia không phải là người không hiểu biết mà thật ra ông cũng đã từng học rất nhiều nhưng vì chán ghét cảnh quan trường thi cử cho nên ông quyết định làm một ông già bán nước mà thôi. Điều đó thể hiện tâm tưởng của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và của những bậc nho sĩ nói chung. Họ đều chán ghét cảnh quan trường thi cử với những bất bình chanh chấp mà trở về làm những người nông dân bình thường để có một cuộc sống tuy thanh đạm nhưng rất đỗi bình yên.
Bốn câu thơ đầu ông quán lên tiếng khi thấy những bất bình của cuộc thi giữa bốn người sĩ tử kia. Vì lòng dạ ngay thẳng vốn đã rời bỏ chốn thi cử từ lâu nhưng khi thấy sự ngang ngược của Trịnh Hâm, Bùi Kiệm nên ông mới cất lời nói mà thôi:
“Quán rằng: “Kinh sử đã từng”,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”
Đến đây chúng ta thấy ông quán bắt đầu thổ lộ những điều mà mình ấp ủ bấy lâu. Hiện tại là một ông quán nước thật đấy thế những xưa kia khi ông còn trẻ ông cũng là một người dùi mài kinh sử và dấn thân vào những cuộc thi. Thế nhưng hiện tại đã khiến cho ông bày tỏ nỗi xót xa, nỗi ghét thương trong lòng mình. Chính vì cuộc thi họa xướng của bốn người kia khiến cho ông Quán phải bật cười mà khuyên Vân Tiên nên biết chọn bạn mà chơi. Vậy nên ông quán đã thể hiện điều đó trong bốn câu thơ đầu.
Chính bởi thấy ông quán đã dùi mài kinh sử là bậc tiền bối đi trước ắt hẳn là có nhiều kinh nghiệm cho nên Lục Vân Tiên thể hiện sự ham học hỏi và tôn trọng của người đi trước của mình qua việc hỏi về lẽ ghét thương ở trên đời này:
“Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?””
Lục Vân Tiên thể hiện sự khiêm tốn của mình cũng là muốn nghe ông quán truyền đạt những kinh nghiệm của bản thân để học hỏi. Lục Vân Tiên nói chưa hiểu lắm về thương hay ghét cho nên muốn ông quán có thể chỉ dạy cho mình. Không biết rằng lẽ ghét thương ở đời thể hiện như thế nào.
Khi ấy ông quán sẵn sàng nhận lời mà thể hiện những lẽ ghét thương của bản thân mình. Trước tiên ông nói về ghét trước, bởi cái sự ghét luôn khiến cho người ta thấy khó chịu chứ không yêu mến như sự thương:
“Quán rằng: “Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm. ”
Ông quán thẳng thắn thể hiện quan điểm của bản thân mình. Ông ghét truyện tầm phào trong cuộc sống thường trực, chuyện tầm phào là những truyện vu vơ hão huyền không có ý nghĩa gì. Một câu thơ có đến ba từ “ghét” điệp đi điệp lại thể hiện sự căm ghét của ông quán với những truyện vô nghĩa trên đời. Không những thế những từ ghét ấy kết hợp với những tính từ như “cay”, “đắng” rồi sau đó là ghét vào tận tâm càng thể hiện sự ghét của ông lão. Đối với một con người ngay thẳng và biết thời thế như ông thì có thể nói những việc làm tầm phào kia khiến cho ông cảm thấy ghét vào tận tâm can của mình.
Thế rồi ông nêu lên những việc tầm phào ấy trong những câu thơ tiếp theo:
“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân. ”
Có thể thấy hai câu thơ một cứ là biểu hiện của những việc làm tầm phào và câu thứ hai là kết quả hay chính là việc làm tầm phào ấy. Ông quán hay chính là tác giả như đang kể tội những hôn quân làm cho cuộc sống nhân dân phải điêu đứng đau khổ. Nói tóm lại rằng ông quán kia yêu thương nhân dân và ghét những gì, những ai làm cho những người nông dân phải khổ. Nào là đời Kiệt, Trụ vì mê nhan sắc mà để nhân dân sống cảnh nghèo khổ. Đời U, Lệ thì xảy ra nhiều chuyện để cho cuộc sống nhân dân lầm than muôn phần. Rồi lại đời Ngũ bá làm cho nhân dân nhọc nhằn, đời Thúc quý phân tranh đất nước khiến cho cuộc sống nhân dân rối ren đau khổ. Như vậy có thể thấy rằng chính những lời tố cáo kia thể hiện quan điểm lẽ ghét của ông quán. Ông ghét những gì có hại cho cuộc sống của nhân dân.
Nói hết phần ghét cay, ghét đắng với giọng điệu như căm thù uất hận ấy đến lẽ thương trên đời nhịp thơ trùng lại trìu mến hơn. Nếu như những câu thơ ghét kia hùng hồn bao nhiêu thì đến câu thơ thương lại nhẹ nhàng, nhơ thương người xưa bấy nhiêu:
“Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông
Thương thầy Nhan Tử dở dang.
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”
Đó là những cái tên của những vị dan tướng ngày xưa, hàng loạt những cái tên được ông quán nhắc đến với sự tôn trọng nhớ thương. từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống, tất cả đều là những cái tên nổi tiếng trong lịch sử. Ông thương họ bởi vì họ là những người tài giỏi trung quân thế nhưng lại có cuộc sống vô cùng dở dang. Tóm lại những người ấy là những người lý tưởng đức độ và tài năng đều sẵn có vì thế cho nên ông quán thương cho họ.
Từ những lẽ ghét thương ấy đến hai câu thơ kết bài ông quán như tổng kết lại cái lẽ ghét thương của mình:
“Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Tất cả những triều đại khiến cho ông quán ghét kia hay là những người tài giỏi ông quan thương thì đều là những con người được ghi tên vào lịch sử với những tội ác, những chiến công thật sự. Chính vì thế mà ông quán như thể hiện được sụ uyên thâm của mình về kinh sử. Tuy ông không còn đi thi nữa nhưng ông vẫn nhớ rất rõ và cứ mỗi lần ông xem qua kinh sử thì lại nửa ghét nửa thương.
Như vậy qua đây nhà thơ đã xây dựng thành công nhân vật ông quán để thể hiện quan điểm của mình. Nói cách khác quan điểm lẽ ghét thương của ông quán gián tiếp thể hiện quan điểm và lẽ ghét thương của tác giả. Thương là thương những người có tài có đức, ghét là ghét những việc làm vô nghĩa, những việc làm có hại cho cuộc sống của nhân dân. Ta thấy lấp lánh một tấm lòng yêu nước thương dân của nhà thơ ở đây.
Mẫu số 2 – Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong chương trinh văn học lớp 11.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn lớn của văn học trung đại nước ta, ông không chỉ đóng góp cho nước nhà những bài văn tế hay với hình ảnh người nông dân yêu nước thà chết vinh còn hơn sống nhục mà còn để lại cho đời sau một tác phẩm truyện hay là Lục Vân Tiên. Có thể nói đây là một bộ truyện thơ hay và có giá trị như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đặc biệt trong tác phẩm ấy đoạn trích Lẽ Ghét Thương nổi bật lên những đạo lí về lẽ ghét thương trên đời. Lẽ ghét thương ấy được nhìn qua cái nhìn của ông Quán.
Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến 504) kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Vân Tiên cùng bạn là vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và vương Tử Trực gian lận. ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Đồng thời đoạn trích cũng là lời cảm khái than đời của ông Quán trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả.
>>Cẩm nang ngữ văn 9 – Toàn bộ về “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
>>Những bài viết liên quan đến Truyện Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Bốn câu thơ đầu là lời của ông Quán khi chứng kiến bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã thua lại còn nói sai lời khiến cho ông phải bật lên những bất bình của mình bằng cách thể hiện lẽ ghét thương trong đời:
“Quán rằng: “Kinh sử(1) đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng(2) xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương””
Ông Quán thẻ hiện mình cũng đã là một người tri thức nhưng về mai danh ẩn tích với cái nghề bán quán này. Ông đã có một thời cũng dùi mài kinh sử chăm chỉ cũng thi thố như Vân Tiên và những người kia. thật khá khen cho câu thơ “ Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” ông quán hay chính tác giả đã giải thích cái căn nguyên ghét thương của mình. Theo ông chính vì ghét nên mới thương, chính những cái ghét kia đã làm ảnh hưởng đến cái thương của họ. Mà tiêu biểu là những đời chúa trị làm những điều khiến ông Quán cũng như tác giả ghét vì đấy dân chúng vào những chỗ nguy hiểm khốn khổ.
Tiếp đến mười hai câu thơ sau ông Quán thể hiện cái lẽ ghét của mình, những lẽ ghét được phô bày ra thể hiện ông Quán là một người tri thức khẳng khái dám nhìn vào cái sai của đời trước mà nói lên quan điểm của mình:
“Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào”
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.”
Vân Tiên tỏ ra là một người ham học hỏi không tự nhận mình là tài giỏi, cũng không thấy ông Quán chỉ là một người bán quán mà khinh thường ông. Hỏi ông rằng lẽ ghét thương thế nào thì ông Quán bắt đầu nói về những ghét thương của mình. Ông Quán ghét những chuyện tần phào trong thiên hạ. Truyện tầm phào là những chuyện tranh đua vớ vẩn trong thiên hạ. đặc biệt ông thể hiện cảm xúc tột độ của mình bằng cách lặp từ ghét và thêm vào đó những tính từ cay đắng. Đó là cái ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm can của ông.
Sau đó ông thể hiện sự ghét của mình qua những sự việc cụ thể. Nào là ghét đời Kiệt, đời Trụ vì đam mê nhan sắc nên đã đẩy nhân dân vào những chỗ nguy hiểm, rồi lại đến nhà U nhà Lệ vì đa đoan lắm chuyện mà khiến dân lầm than. Ghét đời Thúc Quí, Ngũ Bá làm cho nhân dân rối ren nhọc nhằn. Có thể nói đó toàn là những triều đại nổi tiếng của Trung Quốc những triều ấy đại diện cho những gì vua chúa làm cho nhan dân phải khổ. Có thể thấy ông Quán có một lòng yêu thương nhân dân hết mực thì mới hiểu được nỗi khổ của nhân dân như thế. Những cái gì có hại cho nhân dân là ông ghét hết, không phải ghét bình thường mà ghét cay ghét đắng.
Những câu thơ cuối thể hiện sự thương của ông Quán, những người ông thương toàn là những bậc hiền nhân quân tử trung quân ái quốc mà ai cũng biết đến. Nào là tánh nhân như Khổng Tử, rồi lại đến học trò hiếu học như Nhan Tử. Hàng loạt những cái tên của những bậc hiền tài được liệt kê ra Gia Cát, Đồng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ. Đó toàn là những người không những có tài mà còn có đức thế nhưng nhiều người trong đó lại có số phận không may mắn người chết sớm, người gặp cảnh loạn lạc cũng chết Ông Quán thương cho những bậc như thế, những người tài đức là những người được kính trọng yêu mến:
“Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang.
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”
Tác giả kết thúc bằng hai câu thơ cuối cùng như tóm lại cái lẽ ghét thương ở trên đời được nhìn qua con mắt của ông Quán. Đó la những điều thể hiện sự hiểu biết của ông quán cũng như tấm lòng của ông đối với cuộc đời. Chính vì ghét nên mới thương nhân dân, hiền tài. Ông đã từng xem qua nhiều kinh sử và thấy nủa phần ghét nửa phần thương.
“Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Như vậy có thể thấy đoạn trích thể hiện rõ tầm nhìn xa trông rộng của một ông chủ quán như thế nào. Tất cả những tên triều đại và việc làm sai trái của họ ông đều biết hết, những bậc hiền nhân quân tử ông cũng biết hết. Qua đó thể hiện người tài trong xã hội còn rất nhiều tuy nhiên chỉ là chán ghét mà ở ẩn vui tuổi già mà thôi.