Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Phan tich tam trang Thuy Kieu trong doan trich Kieu o lau Ngung Bich – Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Mở bài: Giới thiệu về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Sau khi bán mình chuộc cha và em, Thúy Kiều đã bị tên bán tớ mua nguyệt Mã Giám Sinh câu kết với Tú Bà đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh. Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất đó là một sự giam lỏng. Sau lưng nàng là biết bao song gió, đoạn trường. Tại lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ người yêu, nhớ mẹ cha và xót xa cho bản thân mình.

Thân bài: Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Cảnh lầu Ngưng Bích hiện ra trước mắt Thúy Kiều với sự mênh mông, trơ trọi:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Không gian rộng lớn “non xa trăng gần”  “bát ngát” ấy có sự cô đơn, lẻ loi của con người. Từ “xa trông” biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi từ cảnh vật thiên nhiên, mong muốn phá tan sự đơn độc của con người với cảnh vật, nhưng càng đón đợi, ngóng trông, cảnh vật càng trở nên vắng lặng.

Trăng gần vì sáng nhưng ánh trăng nhỏ quá, núi rộng và to nhưng xa vì trong đêm trăng non mờ quá. Cả “cát vàng cồn nọ” cũng xa con người. Thúy Kiều trở nên cô đơn trước không gian vũ trụ bao la ấy. Và cảm nhận “ Khóa xuân” là cảm nhận rất thực tế. Kiều thấy mình như không còn tuổi trẻ, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xanh.

Cảnh mở đầu bát ngát, mênh mông, làm con người cô đơn trong cảnh ấy, cũng là cảnh mở ra những tâm trạng của nàng Kiều:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Từ láy “bẽ bàng” cho thấy sự hổ thẹn của Kiều, nàng đang tự vấn bản thân, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều. Cảnh rộng lơn, tình cô đơn,  con người không có nơi neo đậu.  Kim Trọng là người Thúy Kiều nhớ đến đầu tiên trong cảnh ấy:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những dày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Lời thơ là lời thổn thức của một trái tim từng tha thiết mặn nồng với tình yêu đầu nhưng dường như thổn thức lắm. Nàng nhớ lại cảnh thề nguyền cùng Kim Trọng, lại tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng đang mòn mỏi, ngóng trông tin tức của nàng một cách vô vọng. Bởi vậy nàng xót xa, thấu hiểu tấm lòng chàng Kim nhưng lại thấm thía cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình. Nàng hiểu rõ tấm lòng son sắt, thuỷ chung của mình với Kim Trọng nhưng nàng cũng hiểu rõ sự trong trắng sẽ không bao giờ “gột rửa” được. Những câu thơ lảy lên nỗi nhớ nhung tha thiết, đồng cảm và tự trách bản thân của Kiều.

Sau nỗi nhớ người yêu nàng nhớ cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Vì thương nhớ cha mẹ nên hình ảnh cha mẹ sớm hôm tựa cửa đón đợi người con hiếu thảo cứ lẩn quất quanh Kiều, nàng xót xa vì điều đó, càng xót xa hơn khi nghĩ cha mẹ đã già yếu “có khi gốc tử đã vừa người ôm” giờ đây ai sẽ là người thay mình chăm sóc cha mẹ “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Đoạn thơ có sử dụng điển tích, điển cố, cùng câu hỏi tu từ cho thấy rõ nỗi nhớ cha mẹ tha thiết trong xót xa không kém nỗi nhớ người yêu. Đó là nỗi nhớ của người con hiếu thuận với cha mẹ.

Kiều nhớ tới chàng Kim trước sau đó nhớ đến cha mẹ. Đó cũng là sự cảm thông hết sức lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du. Tác giả là người hiểu sâu sắc nhất những tâm trạng mà Thúy Kiều đang trải qua. Người con gái có trái tim yêu thương mặn nồng ấy từng “cậy em, em có chịu lời”, từng mong muốn sự đáp đền tình cảm riêng tư của mình với người yêu nhờ vào sự giúp đỡ của em gái thì khi đã lỗi với lời hẹn ước trước kia, trái tim nàng mới đớn đau tột độ. Tâm trạng phụ bạc lấn án nàng cả mười lăm năm lưu lạc. Bởi vậy nhớ người yêu trước là nỗi nhớ được cất lên từ chính sự thấu hiểu của đại thi hào có con mắt thấu suốt ngàn đời.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ nhưng cuối cùng nàng vẫn quay lại với cảnh ngộ của mình. Sống với tâm trạng và hoàn cảnh hiện tại. Tám câu thơ cuối là bức tranh cảnh vật được khắc họa thông qua điệp từ “buồn trông”. Mỗi cảnh vật qua con mắt , cái nhìn của Kiều đều mang theo những tâm trạng, sự khắc khoải riêng. Nàng mỗi lúc lại chìm sâu trong nỗi buồn của mình. Điệp từ “buồn trông” vang lên dồn dập đẩy nàng Kiều vào tâm thế của con người cô đơn đến bơ vơ, bất định:

Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
…………………………………………
Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi

Những câu thơ miêu tả tâm trạng bất ổn, buồn chán, ,lo lắng thoát ra từ thiên nhiên ấy được kết thúc bằng tiếng “ầm ầm” của sóng  như báo trước cơn tai biến sẽ đổ sập xuống đầu Kiều.

Kết bài: Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, lấy cảnh vật làm nền cho con người, Nguyễn Du mở đầu  đoạn trích  bằng không gian rộng lớn nhưng cô đơn. Kết thúc bằng nỗi cô đơn vô vọng đã đẩy lên cao độ trong không gian của sự vắng lặng không một bóng người. Tất cả đẩy Kiều đến nhưng lối rẽ không rõ ràng của vận mệnh.

Phan Thị Ngọc Hạnh - Khoa Ngữ Văn DHSP Hà Nội - (HNUE). Biên tập tài liệu văn học, chia sẻ văn mẫu hay