Phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ

Phan tich bai tho Thu hung cua Do Phu – Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ để thấy cảnh và tình của tác phẩm.

Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm “Thu hứng” do Đỗ Phủ sáng tác

Đỗ phủ sinh ra và lớn lên trong tình cảnh đất nước Trung Quốc triền miên trong cảnh loạn li mặc dù ông giữ một chức quan nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn ông đã rơi vào tình cảnh phiêu bạt. Đỗ Phủ là nhà thơ lớn nhất không chỉ của thơ Đường mà là trong cả lịch sử Trung Quốc. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn . Trong số đó cá bài thơ “Thu Hứng” là bức tranh mùa thu hiu hắt và đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ đồng thời bìa thơ cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Đường thời bấy giờ.

Thân bài: Phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ

Bốn câu thơ đầu là cảnh được bao quát trong tầm mắt rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa. )

Bốn câu thơ dầu tả cảnh thu đầy màu sắc và âm thanh vừa có chất vừa có họa. Ta có cảm nhận được ông đang đứng ở vị trí tương đối cao để có thể ngắm nhùn toàn cảnh vật ví thế khả năng quan sát của ông cũng  khá cao và rất là rộng nên ông đứng ở đó có thể nhìn được toàn cảnh bức tranh thiên nhiên mùa thu . Cảnh rừng phong được nhà thơ nhắc đến trong những câu thơ đầu tiên. Mùa thu thì gắn với những cánh rừng phong đang vào mùa rụng lá, cảnh rừng phong đã chuyển sang màu đỏ tượng trưng cho màu sắc của sự li biệt của sự cách xa. “móc sa”ở đây chính là những giọt sương trắng tượng trưng cho mùa thu cho sự lạnh lẽo. Sườn móc xa làm xơ xác cả một rừng phong đang vào mùa thu buồn, những giọt sương làm cho  cánh rừng đã nhuốm màu buồn nay lại được tô điểm thêm khiến cho cảnh vật thêm nét tiêu điều ảm đạm . Cảnh vật buồn được hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ. Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã. Rừng phong là một biểu tượng của mùa thu phương Bắc, là một thi liệu được nói đến nhiều trong thơ cổ, tuy mang tính ước lệ, nhưng rất gợi cảm thi vị. Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh thực đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu như hai câu thơ đầu tiên là tả cảnh trên cao thì hai câu thơ tiếp theo thì tả cảnh dưới thấp được cảm nhận qua đôi mắt tinh sảo của thi nhân nhưng chứa đựng rất nhiều tâm sự Trước cảnh vật bao la kì vĩ trước cảnh đất trời nổi sóng dường như con người bé lại và thật nhỏ nhoi thật nhỏ bé biết chừng nào trước thiên nhiên rộng lớn ấy. Các từ “sóng rợn” “mây đùn”đã diễn tả cảnh trời đất rộng lớn bao la hùng vĩ trước con người nhỏ bé. Hai câu thơ đầu tả cảnh sắc buồn tẻ của thiên nhiên thì hai câu thơ sau lại tả cảnh dữ dội hùng vĩ của thiên nhiên như hô ứng đối lập nhau khiến cho bài thơ thêm phần mới lạ và có đôi chút bí hiểm thu hút người đọc. bốn câu thơ đầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông sóng vỗ, đến cửa ải mây đùn – tất cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đối với kẻ tha hương. Ở bốn câu thơ đầu tả cảnh thu, hai câu đề đặc tả cảnh sắc mùa thu đẫm uất bi thương, tàn tạ (điêu thương, tiêu sâm), hai câu thực đặc tả cảnh thu hoành tráng dữ dội (ba lãng, phong vân, tiếp địa âm). Cảnh sắc mùa thu mang dấu ấn của địa phương Quỳ Châu vừa âm u, vừa hùng vĩ, cảnh sắc ấy mang phong cách thơ của Đỗ Phủ vừa trầm uất, vừa bi tráng.

Phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ

Bốn câu thơ sau tác gải phát triển cảm xúc của mình nỗi lòng tác giả được thể hiện trực tiếp hơn cụ thể hơn:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà. )

Hoa cúc cũng giống như rừng phong đều là những như gợi nhớ mọi người đến mùa thu. Nhắc đến mùa thu tác giả nói đến hoa cúc là một điều bình thường nhưng cái lạ ở đây chính là khi nhắc đến loài hoa lại xuất hiện dòng lệ rơi . Chữ “lệ” trong câu thơ này khiến cho người đọc khó nhận biết được đây là lệ của hoa hay chính là lệ của nhà thơ của tác giả. Nhưng có lẽ ta nên hiểu theo ý mỗi khi nhìn hoa của nở nhà thơ lại chạnh lòng nhớ đến quê hương. Những giọt nước mắt đó cũng cứ như thế mà tuôn rơi không thể nào chặn lại được. Hình ảnh hoa cúc tuôn thêm dòng lệ cũ thể hiện nỗi nhớ quê hương trở đi rồi trở lại cứ thấp thỏm trong tâm trạng của nhà thơ đồng thời cũng gợi về dòng lệ chứa chan tình của nhà thơ.

 Đây là hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là một biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ đã phải sống trên một con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang. Loạn lạc nên họ không thể trở về quê hương được. Tấm lòng thương nhớ quê nhà đành buộc chặt nơi con thuyền nhỏ ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang một ý nghĩa khái quát, nó đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật của văn học, dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Ở hai câu thơ cuối bổng nổi lên một tiếng chày giặt vải trên dòng sông. Am thanh ấy khiến ta dường như có thể quên được đi cái nỗi nhớ quê hương đang chen lấn đang trôi dậy trong lòng nhà thơ. Nhưng đối với tác giả thì âm thanh ấy lại không đủ để xua tan những áng mây buồn trong lòng người thi sĩ. Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở con người về việc may áo để chuẩn bị cho cái rét cái lạnh. Âm thanh mùa thu may áo vừa  kết thúc bài thơ vừa mở ra một nỗi nhớ mênh mang sâu thẳm trong lòng nhà thơ miên man không dứt. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. Bài thơ vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này. Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. Thu hứng cũng nằm trong số đó. Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng. Nhưng với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc. Cảnh và tình đã có sự kết hợp rất chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng của bài thơ.

Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. “Thu hứng” vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.

Kết bài: Cảm nhận những ngôn từ trong bài thơ Thu hứng

Bài thơ mang đậm cảm xúc của Đỗ Phủ cảm xúc ấy được thể hiện trong từng câu từng chữ của bào thơ. Bên cạnh đó bài thơ cũng cho chúng ta thấy được cái hay của thơ thất ngôn bát cú mỗi câu thơ đều mang cái thần thái cái cảm xúc của nhà thơ được gửi trọn vào tác phẩm.

Phan Thị Ngọc Hạnh - Khoa Ngữ Văn DHSP Hà Nội - (HNUE). Biên tập tài liệu văn học, chia sẻ văn mẫu hay