Đề bài: Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Ngữ văn 9
Anh chị hãy viết bài văn Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 1
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Lời của bài thơ vang lên làm cho chúng ta cùng nhớ về những năm tháng chiến đấu chống quân xâm lược của những người lính đã xả thân để hi sinh vì đất nước. Thời gian này, tuy là thời gian khó khăn thế nhưng những người lính bộ đội cụ hồ vẫn giữ cho mình những niềm lạc quan, hứng khơi trong cuộc sống và công việc Và bài thơ về tiểu đội xem không kinh là bài thơ như vậy. đó là hình ảnh của những chiếc xe không có kính, trần trụi một cách thật tự nhiên nhưng lại mang rất nhiều những ý nghĩa trong đó. Qua đây, tác giả Phạm Tiến Duật đã cho chúng ta thấy được những khó khăn gian khổ và ý chí của những người lính bộ đội lớn như thế nào.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Mở đầu bài thơ như một lời nói chuyện nho nhỏ về cuộc đời của chiếc xe, cũng như lời nói đùa vui của anh lính với những ai đang thắc mắc về chiếc xe của mình. Bom đạn chiến đấu ác liệt đa làm tàn phá những chiếc xe ban đầu vốn rất tốt, sau đó, những bộ phận của chúng dần dần không còn nữa, từng thứ một đã bị hỏng trước những áp lực công suất của bom chiến biến thành không có kính, không mui, không đèn, thùng xe bị xước và không còn nguyên vẹn nữa. Hình ảnh những chiếc xe như vậy không phải là hình ảnh hiếm hoi nữa mà thậm chí nó còn vô cùng phổ biến trong suốt những cuộc kháng chiến. Thế nhưng dù hoàn cảnh có khó khăn như vậy thì hình ảnh của những người lính lái xe mới lại càng được nổi bật.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Nhịp thơ tự do có phần nhanh hơn, nhưng lại khiến cho người đọc có cảm giác như đang được cùng ngồi trên chiếc xe ấy để nhìn thấy mọi thứ xung quanh. Tất cả những điều mà chúng ta tưởng rằng khó khăn thì chúng lại trở thành những ưu điểm có thể nhìn được trời đất một cách tự do không bị gò bó, có thể có được cảm giác tự tại mà hiếm khi nào những người lính mới có thể cảm nhận được, bất chấp hết cả những khó khăn và gian khổ trước mắt.
Không có kinh, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người giá
Hay là những khi: Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Những điều đó đã làm cho họ càng trở nên vui vẻ hơn bao giờ hết, như một gia vị của cuộc sống và hiếm khi mới được trải nghiệm.
Những chiếc xe về trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tớ
Bắt tay qua cửa kinh vỡ rồi
Thế đấy, những người lính trẻ tuổi vẫn mang trong mình một tâm hồn trẻ trung dù là ở bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Họ vẫn luôn tin vào tương tại của tổ quốc, nơi mà tình bạn tình đồng chí luôn được mọi người quan tâm, coi trọng.
>>Cẩm nang ngữ văn lớp 9 – Toàn bộ về Bài thơ về tiểu đội xe không kính
>>Những bài viết hay về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Với một chất giọng trẻ, tâm hồn tươi đẹp mà Bài thơ về Tiểu đội xe không kính đã mang tới những luồng gió mới, khiến chúng ta càng thêm cảm phục và trân trọng những người lính đã anh dũng chiến đấu vì tổ quốc.
Anh chị hãy viết bài văn Phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – Mẫu 2
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ một anh lính tiểu đoàn tăng thiết giáp hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử, tâm hồn của một thi sĩ cùng với cuộc đời của người lính đã cho ra đời những bài thơ hướng về Tổ quốc về cách mạng rất có duyên của Phạm Tiến Duật. Thơ ông thiên về hình ảnh một thế hệ trẻ phơi phới lạc quan trẻ trung và bất khuất. “ Bài thơ về tiều đôi xe không kính” được sáng tác vào những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ giữa thế kỉ XX.
Bằng cảm hứng hiện thực và lãng mạn bài thơ ghi lại những nét ngang tàn dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự. Bài thơ thắm đượm chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đánh Mỹ. Bài thơ có cái tên thật bình dị nhưng cũng rất độc đáo hiện thực là “ những chiếc xe không kính” trần trũi nhưng lại rất nên thơ và đẹp như một bài thơ. Chất thơ ấy thật kì lạ nhưng rất đỗi tự hào bởi nó được toát lên từ cái gian khổ ác liệt của chiến trường.
Mở đầu bài thơ, là hình ảnh những chiếc xe không kính hiện lên tự nhiên mà đặc biệt:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”
Hai câu thơ. tác giả đã lí giải vì sao xe không có kính. Cấu trúc câu thơ dưới hình thức hỏi đáp. Ba chữ “ không” đi liền nhau,hai nốt nhấn” bom giật bom rung” đã biểu lộ cách ăn nói rất lính tráng rất phóng túng và hồn nhiên của tác giả. Câu thơ như một câu văn xuôi nhưng đọc lên thì vô cùng thú vị.
Những câu thơ tiếp theo đã khắc học chân dung người lính lái xe qua nhiều hình ảnh đẹp và phong phú. Từ trong bom bụi mù mịt ta vẫn nhận ra tư thế ung dung cái nhìn rất thoáng của người lính:
“ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất,nhìn trời,nhìn thẳng”
Sự thiếu thốn khó khăn về phương tiện không hề làm người lính lái xe nản lòng mà ngược lại các anh vẫn “ ung dung” tự tin lái xe với thư thế làm chủ. Ngồi lái xe trên những chiếc xe không kính các anh như cảm thấy thiên nhiên hòa vào “ buồng lái” đất, trời các anh đều thấy và cảm nhận được hết. Điệp từ “nhìn” được láy lại ba lần nhịp thơ mạnh, đĩnh đạc nói về chất dũng mãnh hiên ngang của người lính.
Tiếp mạch cảm xúc nhà thơ đưa ta đến với những thước phim quay nhanh qua cái nhìn khách quan của người lính. Đầu tiên là gian khổ của thiên nhiên. Trước tiên là gió:
“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
“Gió” được nhân hóa và chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng. Vì xe chạy thâu đêm lại không có kính nên người lính mới có cảm giác đắng mắt đến thế. Con đường phía trước là con đường cụ thể nhưng nó còn mang hàm nghĩa đó là con đường cách mạng mà Tổ quốc ta đã lựa chọn, chiến đấu để giải phóng miền Nam.
Tiếp theo là đến bụi. Gió bụi là hiện thực nhưng nó còn tượng trưng cho bao khó khăn gian khổ ở đời. Chữ “ừ” vang lên giữa câu thơ như một thách thức một sự chấp nhận hoàn toàn chủ động.
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Thêm một hình ảnh rất hóm hỉnh độc đáo một nụ cười vang giòn giữa khói lửa “ cười ha ha”. Nụ cười ấy đã thể hiện tinh thần lạc quan hồn nhiên yêu đời của tiểu đội xe không kính.Đó cũng là nụ cười mà ta đã bắt gặp trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
“Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
( Nhớ – Hồng Nguyên)
Một mái tóc xanh mới tuổi 20 chỉ qua mấy cung đường đã có sự thay đổi đáng sợ “ Bụi phun tóc trắng như người già”. Cái chất lạc quan yêu đời hồn nhiên của Phạm Tiến Duật là ở chỗ đó.
Sau gió,bụi, rồi đến mưa:
“Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”
Thế có nghĩa là người lính nếm đủ mọi gian khổ: gió, bụi, mưa dầm nhưng vẫn ngang tàn phơi phới.
Sau những tháng ngày chiến dịch chở vũ khí, lương thực…chi viện cho tiền phương vượt qua hàng nghìn hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn. Những người lính trong tiểu đôi xa không kính đã về đây họp thành tiểu đội. Lại trao nhau những cái bắt tay ấm tình đồng đội:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Cái bắt tay ấy,ta cũng đã gặp trong hình ảnh người lính vệ quốc quân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng cái bắt tay ấy mỗi thời mỗi khác:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
( Đồng chí – Chính Hữu)
Những người lính học gặp nhau và cùng có những phút nghỉ ngơi hiếm hoi cùng chung bữa cơm hội ngộ tình anh em gia đình được nhóm lên từ tình đồng đội.
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đĩa là gia đình đấy”
Bữa cơm dã chiến của người lính dù chỉ có một bát canh rau rừng,có lương khô…nhưng rất đậm đà tình nghĩa, giản dị nhưng ấm áp. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một gia đình tràn đầy yêu thương.
Khổ thơ cuối bài thơ làm nổi bật cái chất dữ dội khốc liệt của chiến tranh. Chiếc xe mang trên mình đầy thương tích:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước”
Ba thứ “ không có” và chỉ một thứ có trong hai câu thơ tự do. Những thứ cần thì không có,mà thứ có lại không cần. Chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường với niềm tự hào và lí tưởng cao đẹp:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Hình ảnh hoán dụ làm nên một câu thơ lãng mạn rất đẹp, khẳng định sức mạnh về tinh thần ý chí kiên cường quyết chiến quyết thắng vì lí tưởng độc lập về tự do của người lính.
Tóm lại, qua bài thơ hình tượng những chiếc xe không kính thật li kì và độc đáo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc phù hợp với chất lính tráng nhưng đủ sức tái hiện một con đường huyền thoại một thời kì oanh liệt và cuộc đời gian khổ của người lính. Bài thơ vì thế mà chất anh hùng ca bỗng dào dạt ùa vào cảm xúc bạn đọc mãi là ấn tượng đẹp về một thế hệ trẻ ở thế kỉ XX.
Phân tích bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ngữ văn 9 – Mẫu 3
Mở bài: Giới thiệu tác phẩm Tiểu đội xe không kính do nhà văn Phạm Tiến Duật sáng tác
Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) là nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Vị trí vinh dự ấy đã được khẳng định ngay từ khi ông đoạt giải Nhất cuộc thi thơ do Báo Văn nghệ tể chức năm 1969 với chùm thơ độc đáo, mới mẻ, sáng tạo từ nội dung lẫn thi pháp, lửa đèn, Nhớ, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong. Từ đó các tập thơ của ông lần lượt ra mắt độc giả, góp phần hoàn thiện một phong cách, một tiếng nói riêng trên thi đàn Việt Nam hiện đại: Vầng trăng quầng lừa (1970), Thơ một chặng đường (1971), Ở hai đầu núi (1981), Vầng trăng và những quầng lừa (1983), Nhóm lửa (1983)…
Thân bài: Phân tích bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
Thế giới thơ Phạm Tiến Duật là thế giới của Trường Sơn huyền thoại, đầy khốc liệt và lãng mạn. Đó là thế giới của những con đường đầy bụi, đầy mưa tuôn, đầy khói lửa, đạn bom nhưng cũng là thế giới của những vầng trăng, của tiếng cười hồn nhiên sôi nổi, là tiếng hát đong đưa theo nhịp võng giữa rừng già, là rừng xanh bạt ngàn áo lính, là điệp trùng đoàn quân ra trận, là khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một tác phẩm tiêu biểu trong thế giới thơ đặc sắc đó.
Nét độc đáo của thi phẩm này được thể hiện ngay từ nhan đề của nó. Cái nhan đề khá dài mang dáng dấp văn xuôi, gần với khẩu ngữ. Ba chữ “bài thơ về” có vẻ như là thừa, không tuân thủ theo nguyên tắc hàm súc của thơ nhưng đó lại là chủ định nghệ thuật của tác giả.. Trước hết, tác giả muôn lưu ý bạn đọc rằng, đây là một bài thơ chứ: không phải là văn xuôi, mặc dù nhiều câu giống ngôn ngữ văn xuôi. Mặt khác với ba chữ “bài thơ về”, tác giả muốn giới thiệu một cách nhìn hiện thực, hướng tiếp cận hiện thực từ chất thơ, tìm chất thơ ngay trong cái “không bình thường” của cuộc sống, chất thơ trong hiện thực khốc liệt, của chiến tranh. Chính những người lính lái những chiếc xe đầy thương tích ấy đã viết nên những bài thơ cuộc đời, làm nên chất thơ bay bổng. Toàn bộ Bài thơ về tiểu đội xe không kính được triển khai theo chủ đích nghệ thuật như vậy.
Mở đầu là một câu thơ gân guốc, giọng điệu ngang tàng:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Đây là câu thơ rất “ngang” cả ý lẫn lời. Cụm từ “không có kính” hiên ngang chiếm lĩnh hai đầu câu và ở giữa là hai chữ “không phải”. Chính hai chữ mang tính phủ định này lại biến hai chữ “không” thành một chữ “có”. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì !Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Lỡi giải thích thật nhẹ nhàng, đơn giản mà chứa đưng một nội dung hiện thực sâu sắc. Chiến tranh khốc liệt đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, làm cho chúng không còn là những chiếc xe bình thường.
Hình ảnh nhũng chiếc xe không kính đi vào thơ là một phát hiện độc đáo của Phạm Tiến Duật. Ông đã tìm ra chất thơ trong hiện thực khốc liệt của chiến tranh; ông đã tìm ra chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy để chiến đấu và chiến thắng quân thù.
Những chiếc xe không kính là hình ảnh thực, thực đến thô ráp, trần trụi nhưng qua cách nhìn của Phạm Tiến Duật trở nên thơ mộng, lãng mạn đến lạ kì. Bởi nhà thơ đã biến cái không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Điều thú vị nhất là được thỏa thích nhìn! Nhìn mà không bị che chắn, khuất lấp nhìn là được cảm nhận, đón nhận, giao lưu trực tiếp với thiên nhiên, với cuộc sống bên ngoài. Sao lại không thú vị khi ngồi trong buồng lái mà vẫn được nhìn trời, nhìn đất, nhìn sao trời, cánh chim và con đường chạy thẳng? Cả một thế giới thơ mộng được người chiến sĩ lái xe đưa vào cả trong buồng lái là nhờ xe không có kính!
Ở hai khổ thơ đầu, tác giả tập trung khai thác vẻ đẹp của người chiến sĩ lái, xe qua cách nhìn thế giới bên ngoài. Từ cách nhìn, cách cảm nhận thế giới, nhà thơ đã thể hiện một cách sáng tạo phong thái ung dung, từ thế chủ động, tâm hồn nghệ sĩ của những người chiến sĩ lái xe. Họ thật nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, họ say mê ngắm nhìn trời đất trong lúc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới, họ vẫn không quên nhiệm vụ vẻ vang của mình. Cái nhìn của họ vẫn tập trung vào con đường, tập trung vào phía trước, có nghĩa là “nhìn thẳng”. Hai chữ “nhìn thẳng” đặt sau bốn chữ “nhìn đất, nhìn trời” là một sáng tạo của Phạm Tiến Duật. Bước đi của câu thơ này thật bất ngờ! Đang nhìn trời, nhìn đất nghĩa là nhìn sự vật, bất ngờ chuyển sang nhìn phương hướng, từ kết cấu động từ + danh từ bỗng chuyển sang kết cấu động từ + trạng từ. Bất ngờ tạo nên sự tập trung chú ý, tạo nên khoảng lặng, điểm dừng. Cái đọng lại trong tâm trí của người chiến sĩ lái xe là cái nhìn thẳng, một định hướng, một quyết tâm, một ý chí không gì lay chuyển được!
Những người chiến sĩ không chỉ thấy được điều thú vị khi lái xe không kính mà còn ý thức được những khó khăn gian khổ mà mình phải đối mặt trong hoàn cảnh này:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Nhận thức đầy đủ khó khăn gian khổ nhưng họ nhìn gian khổ, nói về gian khổ thật nhẹ nhàng:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Khổ thơ tiếp theo có cấu trúc tương tự. Hai câu trên nói về hoàn cảnh, hai cậu dưới nói về thái độ của người chiến sĩ lái xe:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Nhà thơ khai thác triệt để tính tương phản giữa hoàn cảnh và thái độ. Hoàn cảnh thật khó khăn, khắc nghiệt, người chiến sĩ phải chịu cảnh “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”. Vậy mà thái độ của họ thật thản nhiên, ngang tàng, bất chấp khó khăn gian khổ. Phạm Tiến Duật đã tìm được ngôn ngữ riêng của họ và đưa thẳng vào các câu thơ của mình: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”. Nhà thơ không câu nệ vần điệu, câu chữ, cú pháp cổ điển mà lấy nhịp điệu ngôn ngữ của hiện thực cuộc đời để phản ánh đúng suy nghĩ, lời nói, việc làm của người chiến sĩ lái xe trên đường ra mặt trận. Chính sự giản dị về ngôn từ, sự chân thực trong cảm xúc suy nghĩ và sự cụ thể, sinh động trong từng hình ảnh, chi tiết đã góp phần tạo nên sức thuyết phục và cảm hóa của bài thơ này.
Người chiến sĩ lái xe là hình tượng trung tâm của Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Hình tượng này được tác giả đặt trong nhiều mối quan hệ đa dạng mà thống nhất, mối quan hệ nào cũng góp phần bộc lộ vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe. Trước hết là mối quan hệ giữa người chiến sĩ lái xe với những chiếc xe không kính. Thông qua mối quan hệ này, người đọc nhìn thấy phong thái ung dung, tinh thần gan dạ, dũng cảm của người lính lái xe trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Mối quan hệ thứ hai là người lính lái xe và con đường. Con đường là hình ảnh xuyên suốt trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính và cũng là hình ảnh nổi bật trong thơ Phạm Tiến Duật thời chống Mĩ. Con đường và người lính không thể tách rời. Người lính lái xe đi trên đường, “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”, “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Con đường là không gian hội ngộ của những người chiến sĩ, nơi ghi dấu những kỉ niệm trên đường hành quân. Vì vậy con đường không những lưu giữ trong mắt mà còn khắc đậm trong tim Phạm Tiến Duật và bạn bè thuở ấy. Trên con đường ra trận, một gia đình lớn của những người lính được hình thành và gắn bó thân thiết:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội xe là một trong nhiều gia đình ấm cúng nghĩa tình trên tuyên đường Trường Sơn huyền thoại. Những chiếc xe họp thành tiểu đội, họp thành đoàn quân vượt qua bom rơi, đạn nổ:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước;
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Kết bài: Cảm nhận về bài thơ Tiểu đội xe không kính
Cái làm nên sức mạnh của đoàn xe chính là tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, là tình cảm tha thiết với nửa nước thân yêu. Bài thơ kết lại bằng một câu thơ chắc nịch, dồn nén đầy cảm xúc và suy nghĩ, lắng đọng mà dư ba: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Nhờ có những trái tim yêu nước ấy mà đoàn xe chạy tới ngày đất nước thống nhất trọn niềm vui.